Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tư tưởng này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ những ngày đầu lập nước. “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”[1] ; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”[2]. Với tư tưởng, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước nên mọi hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều được thực hiện trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp, dùng pháp luật để quản lý xã hội.
Theo quan điểm của Người, tất cả mọi hoạt động của hệ thống chính trị đều phải phục vụ lợi ích của dân. Rất nhiều lần, Người nhấn mạnh: “việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng phải hết sức tránh; phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân được học hành; Đảng không có mục đích nào khác là vì lợi ích của nhân dân; nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi; chúng ta đã giành được độc lập rồi mà dân vẫn cứ đói rét thì độc lập chẳng có nghĩa gì; Đảng và Chính phủ phải lo tương cà mắm muối cho nhân dân; Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”... Tinh thần nhân văn ấy chính là điểm ưu việt của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, định hướng cho mọi hoạt động lập nước và phát triển đất nước.
“CAND là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”[3]. Đảng và nhà nước tin tưởng giao cho lực lượng CAND thực thi quyền lực nhà nước, đồng thời coi lực lượng này là công cụ sắc bén, hữu hiệu bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Để đảm bảo và đề cao tinh thần nhân văn của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, mỗi cán bộ, chiến sĩ CAND cần phải nhận thức đúng, đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò của mình trong quá trình thực thi nhiệm vụ, xây dựng phong cách sống, làm việc nhân văn.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tập trung luận bàn về phong cách nhân văn của người cán bộ, chiến sĩ CAND và coi đây chính là điểm nhấn quan trọng góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Trước tiên, bàn về hai chữ nhân văn. Nếu chiết tự, có thể hiểu “Nhân” là người, là bản chất NGƯỜI của con người. “Văn” là văn hóa, là đẹp. Nhân văn là những nét đặc trưng thuộc bản chất của con người kết hợp với tri thức văn hóa, thể hiện qua tư tưởng, quan điểm, tình cảm của con người về các giá trị sống “Chân – Thiện – Mỹ”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, nhân văn được hiểu với nghĩa của một tính từ. Cụ thể: “1. (ít dùng): Thuộc về văn hoá của loài người. 2. Nhân văn chủ nghĩa (nói tắt). Những yếu tố nhân văn trong một tác phẩm văn học cổ”[4]. Trong Từ điển số, nhân văn được hiểu với nghĩa của một danh từ để chỉ văn hoá của loài người[5].
Lại bàn về phong cách. Phong cách được hợp thành bởi 2 từ: “phong” và “cách”. "Phong" là vẻ bề ngoài, "cách" là cách thức để trưng bày ra. "Phong Cách" là sự trưng bày những tính cách bên trong tâm hồn thông qua vẻ bề ngoài. Phong cách là nét độc đáo, là dấu ấn riêng của cá nhân, một nhóm người, một tập thể hay cộng đồng người. Tuy nhiên, không phải cá nhân, tập thể nào cũng có phong cách. Phong cách = phong thái + nhân cách tức là cái phong thái bên ngoài thể hiện nhân cách bên trong. Nói cách khác, phong cách là cung cách, cách thức hành xử của một người, một nhóm người, một tập thể hay cộng đồng người được thể hiện nhất quán trong lao động, học tập, sinh hoạt, tạo nên điểm riêng, dễ khu biệt. Phong cách hình thành trên cơ sở những yếu tố về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tài năng, sở trường, khí chất.
Phong cách nhân văn là phong cách đẹp được xã hội thừa nhận. Vẻ đẹp đó được biểu hiện qua lý tưởng đẹp, suy nghĩ đẹp, lời nói đẹp, hành động đẹp, tâm hồn đẹp. Nói cách khác, phong cách ấy được thấm qua tâm độ lượng, vị tha, khoan dung, yêu thương đồng loại, yêu thiên nhiên, tổ quốc, sống có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, biết đấu tranh bảo vệ lẽ đúng, lẽ phải, bảo vệ chân lý. Đặc biệt, trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, phong cách nhân văn của mỗi cán bộ, chiến sĩ công an luôn được quan tâm, coi trọng và được khẳng định qua các nội dung:
Một là, giao tiếp, ứng xử có văn hoá. Hành vi, cử chỉ, thái độ, lời nói của cán bộ chiến sĩ công an nếu chuẩn mực sẽ tác động trực tiếp đến đối tượng giao tiếp, ứng xử.
Hai là, nhận thức đúng về nghề nghiệp. Theo lời Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn, đây là nghề “thức cho dân ngủ, gác cho dân vui chơi, lấy niềm vui hạnh phúc của dân làm lẽ sống của mình”[6]. Một nghề chỉ biết còn Đảng thì còn mình, chỉ biết ra sức bảo vệ, phục vụ nhân dân, một nghề lấy yêu thương, hy sinh làm phương pháp thực hiện, lấy lý tưởng, niềm tin làm lẽ sống. Do vậy, nhận thức đúng về nghề nghiệp sẽ giúp cán bộ, chiến sĩ công an hiểu rõ những yêu cầu phẩm chất, năng lực cần có đối với mỗi vị trí công việc, từ đó xây dựng kế hoạch tự bồi dưỡng, rèn luyện bản thân.
Ba là, tâm hồn phong phú, lạc quan, yêu đời. Đây là điều kiện, là cơ sở nuôi dưỡng và phát triển phong cách nhân văn. Tinh thần tận tuỵ, trách nhiệm với công việc; tình yêu thương nhân dân chưa đủ để phong cách nhân văn lan toả. Người chiến sĩ công an còn cần có một tâm hồn phong phú, biết yêu thương từng ngọn cỏ, lá cây; biết rung động trước mỗi âm thanh của sự sống; biết trân quý thế giới tự nhiên… chuyển hoá thành những hành động chung tay bảo vệ môi trường và sự sống muôn loài. Văn nghệ Công an nhân dân đã góp phần mở ra thế giới tâm hồn tràn đầy tình yêu thương và vô cùng lạc quan của người chiến sĩ công an. Nụ cười chiến sĩ như cốc nước mát lành xoa dịu những mệt mỏi căng thẳng, đánh tan những u buồn, phiền não. Phải chăng, đó chính là cội nguồn sức mạnh, tạo động lực cho người chiến sĩ vững bước trong “hành trình” xây dựng, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, phục vụ nhân dân.
Tuy nhiên, để phong cách nhân văn thực sự phát huy hiệu quả trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân cần phải nghiêm túc đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải có tinh thần kiên quyết thực thi pháp luật và bảo vệ pháp chế XHCN. Đây là yêu cầu căn bản, đầu tiên đặt ra cho mỗi cán bộ, chiến sĩ công an. Yêu cầu này cần được quán triệt, ghi nhớ và được thể hiện qua các hành động cụ thể như: (1) Kiên quyết đấu tranh với những người vi phạm pháp luật, tội phạm, kiên quyết thi hành pháp luật, điều tra, đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật, khẩn trương, kịp thời và đúng thời điểm, cẩn trọng. (2) Tuân thủ tuyệt đối pháp luật của Đảng, Nhà nước, điều lệnh, quy định của ngành công an; thực thi các quyền hạn của mình một cách độc lập, không chịu ảnh hưởng bởi bất kỳ một áp lực nào bên ngoài. (3) Đấu tranh chống những hành động vi phạm pháp luật, không bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội. Cán bộ, chiến sĩ công an phải nêu cao tinh thần kiên quyết đấu tranh bảo vệ pháp chế để thực thi pháp luật đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. (4) Đấu tranh chống lại những hành vi vi phạm của cán bộ, đảng viên, cơ quan nhà nước và các chủ thể khác vi phạm pháp luật.
Tinh thần cương quyết, khôn khéo chính là vũ khí sắc bén, là nguyên tắc, phương châm hoạt động của người cán bộ, chiến sĩ CAND. Cương quyết với kẻ thù, cương quyết đấu tranh loại bỏ cái xấu, cái ác, cái tiêu cực không chùn bước, không nhân nhượng, một lòng vì lẽ phải và chân lý là đi theo con đường, đạo lý nhân nghĩa mà dân tộc ta đặc biệt đề cao. Thực chất, đó cũng là một giá trị nhân văn mang tầm vóc thời đại mà những người bảo vệ thể chế chính trị dân chủ cộng hòa cần phải có và rèn luyện bằng mọi giá để có được.
Thứ hai, phải khách quan, công minh khi thực thi công vụ. Yêu cầu này xuất phát từ thực tế quyền hạn được giao, đó là quyền hành pháp, quyền được xử phạt đối tượng vi phạm pháp luật. Do đó, người cán bộ, chiến sĩ công an phải thực sự vô tư, khách quan, công bằng, luôn giữ thái độ chuẩn mực trong thực thi công vụ. Cụ thể: (1) Cán bộ, chiến sĩ công an không được phép định kiến đối với những người vi phạm pháp luật; không được để những cảm xúc, tình cảm cá nhân chi phối làm ảnh hưởng đến tính chất vụ việc. (2) Chỉ đưa ra các quyết định và quyết định thực thi pháp luật khi và chỉ khi có các căn cứ, bằng chứng xác đáng, được kiểm chứng trên mọi phương diện. (3) Khi tiến hành điều tra, thi hành pháp luật phải có quan điểm toàn diện. Tìm hiểu rõ nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh sống, các yếu tố tác động, thân nhân người phạm tội, người vi phạm. (4) Không được lợi dụng nghề nghiệp để mưu cầu lợi ích cho bản thân và gia đình. Chú ý hành vi ứng xử khi thực thi công vụ và trong sinh hoạt hàng ngày, tránh những suy nghĩ lệch lạc và cái nhìn tiêu cực của dư luận xã hội. (5) Luôn tuân thủ các chuẩn mực ứng xử nhằm củng cố niềm tin của nhân dân. Người cán bộ, chiến sĩ công an khi thực thi pháp luật phải có ý thức tạo cho mình lối sống giản dị, trong sạch và dũng cảm chiến thắng mọi cám dỗ vật chất và mong muốn, nhu cầu cá nhân.
Thứ ba, phải có tinh thần xây dựng và cầu thị. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc người cán bộ cách mạng: Không nên tự mãn, tự kiêu, tự ti; phải thường xuyên học hỏi, cầu tiến bộ. Theo Người: "Mình đối với mình: Đừng tự mãn, tự túc; nếu tự mãn, tự túc thì không tiến bộ. Phải tìm học hỏi cầu tiến bộ, đừng kiêu ngạo, học lấy điều hay của người ta. Đối với đồng chí mình... học cái hay, sửa chữa cái dở...”; tư cách của một người cách mạng là:“Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nhẫn nại chịu khó. Hay nghiên cứu xem xét...”. Nhẫn nại, chịu khó nghiên cứu, học hỏi là đức tính cầu thị của người cách mạng, người cán bộ, chiến sĩ công an. Cầu thị để xây dựng lực lượng CAND ngày càng vững mạnh về mọi phương diện. Cầu thị cũng chính là biểu hiện của phong cách nhân văn trong thực thi công vụ, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Thứ tư, phải thực hành lối sống chuẩn mực, gìn giữ tư cách, đạo đức người Công an nhân dân. Đây là yêu cầu bắt buộc khi thực hiện công tác công an. Yêu cầu này đòi hỏi người cán bộ, chiến sĩ công an phải: (1) Tôn trọng lẽ phải, làm theo lẽ phải, dũng cảm đấu tranh với mọi hành vi, biểu hiện sai trái; hiểu luật, sống và làm theo Hiến pháp, pháp luật. Chuẩn mực và toàn diện; có kinh nghiệm xã hội phong phú, có hiểu biết sâu rộng về thực tiễn xã hội, có niềm tin vào sự cống hiến của bản thân đối với công việc, thực thi nhiệm vụ theo đúng pháp luật, không xu nịnh, cơ hội, trục lợi. (2) Đức tính trung thực, vô tư, nhân hậu, ngay thẳng và cẩn trọng, biết giữ gìn uy tín cá nhân. Trong đời sống hàng ngày cán bộ, chiến sĩ phải thực hiện kỷ luật sống của bản thân, thận trọng trong lời nói và hành động, cá nhân và gia đình, phải luôn học hỏi, nâng cao kiến thức pháp lý và rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ trong thi hành nhiệm vụ. (3) Ứng xử văn minh, lịch sự bảo vệ hình ảnh lực lượng CAND. Đối với nhân dân, phải có thái độ hoà nhã, tôn trọng, lễ phép. Đối với đồng nghiệp phải có tinh thần giúp đỡ. Đối với công việc phải mẫu mực, thực hiện nghiêm điều lệnh, nội quy của ngành.
Tóm lại, đối với lực lượng CAND, phong cách nhân văn được coi là điểm nhấn quan trọng góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Phong cách đó được thể hiện từ ý chí, lý tưởng, nguyện vọng, mong muốn và hành động hết lòng, hết sức vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, đặt lợi ích của Đảng, nhân dân lên trên hết với quyết tâm “còn Đảng thì còn mình”. Phong cách nhân văn còn hiện diện ngay trong nhận thức về nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, nhận thức về nghề công an và tình yêu quê hương, đất nước, yêu lẽ phải, đấu tranh cho lẽ phải và sự công bằng xã hội, hướng tới những giá trị đích thực “Chân, thiện, mỹ” mà cả nhân loại đang theo đuổi, hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Trung tá, TS. Nguyễn Tuyết Lan
Khoa KHXHNV và Tâm lý, T03
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, NxbCTQG, H,2000, tr.515.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, NxbCTQG, H,2000, tr 449.
[3] Luật Công an nhân dân 2018
[4] Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 2012, Tr 916.
[5] https://tudienso.com/tu-dien/nhanvanlagi?
[6] Trần Quốc Hoàn: Một số vấn đề về đấu tranh chống phản cách mạng, Viện Nghiên cứu Khoa học Công an, H.1975, tr.477.