Từ ngày 14-15.4.2025, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã có chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam. Đây là chuyến thăm Việt Nam lần thứ 4 trên cương vị là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước và được kỳ vọng sẽ mở ra một chương mới, làm sâu sắc hơn quan hệ vốn “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Nhìn lại chặng đường 75 năm kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao cho thấy, quan hệ giữa 2 bên đã phát triển vượt bậc trên nhiều phương diện, nhưng nổi bật hơn cả là quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác kinh tế, thương mại giữa 2 bên.

Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thăm Việt Nam năm 2023
1. Việt Nam-Trung Quốc: “Lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan” tạo cơ sở vững chắc cho mối quan hệ hòa hiếu, hữu hảo lâu dài
Trung Quốc và Việt Nam là láng giềng gần gũi “núi liền núi, sông liền sông”, gắn kết với nhau qua hàng nghìn năm lịch sử, có “lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan”. Cả 2 đều là các nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có chung lý tưởng và niềm tin, từng giúp đỡ lẫn nhau trong thời kỳ đầu cách mạng và thời kỳ thành lập nước, xây dựng tình hữu nghị sâu sắc “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Mặt khác, trong đối ngoại, Trung Quốc và Việt Nam rất coi trọng quan hệ song phương. Trung Quốc coi Việt Nam là một ưu tiên trong ngoại giao láng giềng của mình. Việt Nam coi việc phát triển quan hệ với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược và ưu tiên hàng đầu. Năm 2023 là năm kỷ niệm 15 năm thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa Trung Quốc và Việt Nam, đánh giá về thời khắc này, Giáo sư Phan Kim Nga-nghiên cứu viên cao cấp của Viện nghiên cứu Chủ nghĩa Mác thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cho rằng, quan hệ Trung-Việt đang đón một thời điểm quan trọng, chuyến thăm của Nhà lãnh đạo Trung Quốc tới Việt Nam lần này nêu bật vị trí quan trọng của quan hệ Trung-Việt trong quan hệ đối ngoại của Trung Quốc, sẽ mở ra những triển vọng mới cho sự phát triển quan hệ giữa hai đảng và hai nước, đồng thời cũng cho thấy bố cục chiến lược vừa toàn diện vừa có trọng điểm của ngoại giao Trung Quốc.
Trước chuyến thăm lịch sử lần này, kể từ khi trở thành Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch Tập Cận Bình từng thăm Việt Nam vào các năm 2015, 2017 và 2023. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc, chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của Chủ tịch Tập Cận Bình là tới Việt Nam. Đáp lại, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng từng thăm Trung Quốc 3 lần vào các năm 2015, 2017 và 2022. Sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XX Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là nguyên thủ nước ngoài đầu tiên được mời thăm Trung Quốc. Đây cũng là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của đồng chí Nguyễn Phú Trọng sau khi nhậm chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ ba. Theo giới truyền thông Trung Quốc, sự sắp xếp này không phải ngẫu nhiên, nó không chỉ tiếp nối truyền thống trao đổi mật thiết giữa hai bên mà còn nêu bật tính đặc thù của quan hệ Trung Quốc-Việt Nam. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói: “Tình hữu nghị sâu sắc, tình đồng chí và anh em giữa Việt Nam và Trung Quốc là duy nhất trên thế giới”. Sau khi trở thành Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 18-20.8.2024, theo lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã thăm chính thức Trung Quốc. Đây là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên ngay sau khi đảm nhận cương vị mới của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Nhân chuyến thăm của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, sáng ngày 14.4.2025, trang mạng điện tử của Nhân dân nhật báo-Cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đăng toàn văn bài viết quan trọng của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề “Chung tay mở ra kỷ nguyên phát triển mới của quan hệ hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc”. Giáo sư Phan Kim Nga nhận định: “Tôi nghĩ điều này rất hữu ích để người dân Trung Quốc hiểu về Tổng Bí thư Việt Nam, hiểu về sự phát triển của Việt Nam và hiểu về nhân dân Việt Nam. Hy vọng trong tương lai, hai bên sẽ có nhiều bài viết quan trọng như vậy và có thể trao đổi trên các phương tiện truyền thông để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, nâng cao hơn nữa nền tảng dư luận xã hội, đóng góp tích cực thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của Cộng đồng chia sẻ tương lai Trung-Việt”.
2. Hợp tác kinh tế, thương mại song phương-điểm sáng trong hợp tác Trung Quốc-Việt Nam
Trung Quốc nhiều năm liên tiếp là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Trong ASEAN, Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất và là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Trung Quốc trên thế giới. Những mặt hàng chính Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc, gồm: Hàng thủy sản; hàng rau quả; hạt điều; cà phê; chè. Những mặt hàng chính Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc: Hóa chất; chất dẻo nguyên liệu; xơ, sợi dệt các loại; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày; sắt thép các loại. Kim ngạch thương mại của Việt Nam-Trung Quốc không ngừng tăng trưởng và liên tiếp phá kỷ lục. Nếu như năm 2008, khi hai nước thiết lập khuôn khổ Đối tác chiến lược toàn diện, kim ngạch xuất nhập khẩu 2 bên mới đạt 20,82 tỷ USD, thì đến năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước đạt đến 205,2 tỷ USD.
Thương mại song phương Việt-Trung
Đơn vị tính: Tỷ USD
Năm
|
Việt Nam xuất sang Trung Quốc
|
Việt Nam nhập từ Trung Quốc
|
Tổng kim ngạch thương mại
|
Cán cân thương mại (Việt Nam nhập siêu)
|
2008
|
4,85
|
15,97
|
20,82
|
11,12
|
2009
|
5,4
|
15,41
|
20,81
|
10,01
|
2010
|
7,74
|
20,2
|
27,94
|
12,46
|
2011
|
11,61
|
24,87
|
36,48
|
13,26
|
2012
|
12,84
|
29,04
|
41,88
|
16,20
|
2013
|
13,18
|
36,89
|
50,07
|
23,71
|
2014
|
14,93
|
43,65
|
58,58
|
28,72
|
2015
|
16,57
|
49,46
|
66,03
|
32,89
|
2016
|
21,95
|
50,02
|
71,97
|
28,07
|
2017
|
35,40
|
58,53
|
93,93
|
23,13
|
2018
|
41,37
|
65,57
|
106,94
|
24,20
|
2019
|
41,46
|
75,50
|
116,96
|
34,04
|
2020
|
48,90
|
84,20
|
133,10
|
35,30
|
2021
|
55,93
|
110,53
|
166,46
|
54,60
|
2022
|
58,40
|
119,30
|
177,70
|
60,90
|
2023
|
61,20
|
110,00
|
171,20
|
48,80
|
2024
|
61,20
|
144,00
|
205,20
|
82,80
|
Quý 1.2025
|
|
|
51,25
|
|
Sau 17 năm kim ngạch thương mại 2 nước tăng gấp 10 lần, trong đó tăng trưởng xuất khẩu cao hơn nhập khẩu, nhập siêu được thu hẹp hơn. Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam kỳ vọng sau chuyến thăm của Tổng Bí thư Tập Cận Bình, kim ngạch thương mại song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ đạt mức cao mới, thể hiện khả năng phục hồi và tiềm năng hợp tác ngày càng được mở rộng.
Bên cạnh điểm sáng về thương mại, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan) hiện đang đổ nhanh vào Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Từ năm 2010 trở về trước, dòng vốn FDI từ Trung Quốc vào Việt Nam còn khá khiêm tốn. Trong tốp 10 quốc gia đầu tư vào Việt Nam, hầu như không có tên của Trung Quốc. Nhưng kể từ năm 2011 trở lại đây, vốn FDI từ Trung Quốc vào Việt Nam có sự thay đổi đáng kể, liên tục vươn lên trong vị trí xếp hạng, tăng về quy mô, thay đổi về hình thức, lĩnh vực, mở rộng về địa bàn.
Từ năm 2016 trở lại đây, Trung Quốc thường nằm trong tốp 10 quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam để đón đầu cơ hội thâm nhập thị trường rộng lớn này. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2011, số vốn đăng ký của Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan) là 1,3 tỉ USD thì đến năm 2017, số vốn đăng ký của Trung Quốc tăng 2,7 lần, bình quân mỗi năm tăng khoảng 18%. Báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính) cho biết, Trung Quốc là một đối tác đầu tư lớn của Việt Nam. Tính đến hết tháng 3.2025, các nhà đầu tư Trung Quốc có 5.351 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký xấp xỉ 32,2 tỷ USD, chiếm trên 6,3% tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký (510,5 tỷ USD) và đứng thứ 6/150 đối tác có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam.
Trong thời gian 9 năm đầu, vốn đầu tư trung bình của một dự án khá nhỏ, khoảng 1,5 triệu USD, có nhiều dự án với số vốn đầu tư theo giấy phép chỉ trên dưới 100.000 USD. Hiện nay, vốn đầu tư trung bình của một dự án đã tăng lên khoảng 4,3 triệu USD, có nhiều dự án trên 1 triệu USD đến 10 triệu USD. Các dự án có vốn đầu tư trên 10 triệu USD đến 100 triệu USD chủ yếu xuất hiện từ năm 2007 trở lại đây, trong đó tiêu biểu như dự án đầu tư xây dựng, quản lý và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp ở Hải Phòng 175 triệu USD của Cty TNHH Liên hiệp đầu tư Thâm Việt; dự án khai thác, kinh doanh khu công nghiệp, kinh doanh bất động sản ở Tiền Giang 100 triệu USD của Công TNHH Đầu tư quản lý Tiền Giang, Trung Quốc; dự án sản xuất giày ở Đồng Nai 60 triệu USD của Công ty Phương Đông-Trung Quốc, dự án xây dựng nhà máy luyện và cán thép ở Thái Bình 33 triệu USD; dự án Khu đô thị Nam Hoàng Đồng I, thành phố Lạng Sơn 27.750.000 USD của Công ty TNHH Thành Bá Nam Ninh; dự án sản xuất tinh bột Wolfram xuất khẩu ở Quảng Ninh 20 triệu USD của Công ty TNHH Wolfram Hạ Long; dự án đúc các sản phẩm kim tiêm nhựa và các sản phẩm nhựa 20 triệu USD của TAKAOTEK Corp-Trung Quốc; dự án sản xuất linh kiện điện tử ở Đà Nẵng 18 triệu USD của Công ty TNHH khoa học kỹ thuật Tường Hựu; dự án sản xuất ván ép MDF ở Long An 10 triệu USD của Cty Glory Wing, Trung Quốc; dự án dịch vụ liên quan đến gia công in phun, đồ hoạ, sản phẩm quảng cáo, dịch vụ quảng cáo ở thành phố Hồ Chí Minh 10 triệu của công ty TNHH Hải Thái in phun, quảng cáo Sơn Đông…. Những dự án với vốn đầu tư lớn này đã góp phần thay đổi diện mạo đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam trong thời gian qua.
Hàng loạt doanh nghiệp lớn của Quảng Đông như Media, TCL, Green, Hoa Vĩ, ZTE đã xây dựng cơ sở sản xuất và hệ thống bán hàng tại Việt Nam. Hiện hai bên đang triển khai dự án xây dựng khu hợp tác kinh tế mậu dịch Thâm Quyến-Hải Phòng với tổng vốn đầu tư khoảng 4 tỷ USD. Trong đó, vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng là 175 triệu USD, đầu tư của doanh nghiệp tham gia là 4-5 tỷ USD. Dự án này đã trở thành một trong những dự án có số vốn đầu tư lớn nhất của Trung Quốc ở Việt Nam hiện nay.
Các dự án lớn của Trung Quốc đầu tư tại Việt Nam, gồm: (1). Đường sắt đô thị Cát Linh-Hà Đông: Tổng mức đầu tư 552 triệu USD (thời giá năm 2008), trong đó vốn ODA Trung Quốc 419 triệu USD, vốn tín dụng 169 triệu USD và đối ứng của Việt Nam là 133 triệu USD. Tuy nhiên, việc chậm giải phóng mặt bằng, cùng với nhiều hạng mục thay đổi, biến động về giá nguyên vật liệu… đã khiến tổng mức đầu tư từ 552 triệu USD lên tới 891 triệu USD, tăng 339 triệu USD. (2) Dự án cao tốc Hà Nội-Hải Phòng: Dự án đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng có tổng mức đầu tư gần 25.000 tỷ đồng với chiều dài 105,5km từ đường vành đai 3 qua Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng. (3) Đường cao tốc Nội Bài-Lào Cai: Dự án được chia làm 8 gói thầu với tổng mức đầu tư gần 20.000 tỷ đồng. Phần lớn tuyến đường do nhà thầy Hàn Quốc thi công (chiếm 6/8 gói thầu). Gói thầu còn lại do công ty cầu đường Quảng Tây (Trung Quốc) thực hiện. (4) Bô xít Tây Nguyên: Tổ hợp bô xít Tây Nguyên gồm hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ có công suất thiết kế giai đoạn I là 650.000 tấn alumin mỗi năm do Tập đoàn Công nghiệp Than khoáng sản Việt Nam làm chủ đầu tư, nhà thầu Chalieco của Trung Quốc là đơn vị tổng thầu thi công. Nhà máy Tân Rai, Nhân Cơ lần lượt được khởi công vào năm 2008-2010 với tổng mức đầu tư lượt lên tới hơn 15.400 tỷ đồng và 16.800 tỷ đồng, tăng 3.800 tỷ đồng và 4.300 tỷ đồng so với dự kiến ban đầu. (5) Nhà máy gang thép Lào Cai: Dự án Nhà máy gang thép Lào Cai được khởi công vào cuối tháng 4/2008, với công suất một triệu tấn mỗi năm (lớn gấp 4 lần Nhà máy gang thép Thái Nguyên trước khi mở rộng) do Công ty TNHH Khoáng sản và Luyện kim Việt-Trung làm chủ đầu tư. Dự án có tổng mức đầu tư khoảng 340 triệu USD, trong đó Việt Nam góp 55%. Đơn vị trúng thầu thi công xây dựng là Công ty TNHH khống chế cổ phần gang thép Côn Minh (Trung Quốc). (6) Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải I: Dự án Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 1 do EVN làm chủ đầu tư. Công trình thuộc Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2006-2015 có xét đến năm 2025 đã được Thủ tướng phê duyệt. Tổng vốn đầu tư dự án gần 1,6 tỷ USD, gói thầu EPC trị giá 1,3 tỷ USD. Trong số vốn trên, dự án sử dụng 85% vốn vay thương mại do Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Trung Quốc tài trợ và 15% vốn đối ứng của EVN. (7) Nhiệt điện Mông Dương 2: Dự án có tổng mức đầu tư ước tính khoảng 1,95 tỷ USD, tăng 550 triệu USD so với dự kiến ban đầu. Đây là là dự án BOT nhiệt điện thứ 3 đã thu xếp vốn thành công kể từ năm 2001 (sau 2 dự án BOT Nhiệt điện chạy khí Phú Mỹ 2.2 và Phú Mỹ 3). Dự án do Tập đoàn AES của Mỹ liên doanh với Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam hợp tác từ tháng 11/2006. Tuy nhiên, đến tháng 3/2011, Tập đoàn công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) đã rút vốn khỏi dự án để đầu tư cho các công trình nhiệt điện trọng điểm khác. Sau khi Vinacomin xin rút khỏi dự án, Tập đoàn AES sẽ bán 49% cổ phần trong dự án Nhà máy điện Mông Dương 2 cho Tập đoàn Posco Power và Tập đoàn Đầu tư Trung Quốc. (8) Nhà máy thủy điện Sông Bung 4: Nằm trên sông Bung thuộc huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, có tổng công suất lắp máy 156MW, tổng mức đầu tư gần 5.000 tỷ đồng, trong đó, huy động từ nguồn vốn vay Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) 196 triệu USD. (9) Golden Westlake: Golden Westlake là khu căn hộ cao cấp với 2 toà tháp 23 tầng, nằm trên khu đất rộng 2 ha, tiếp giáp với đường Thụy Khuê và Hoàng Hoa Thám (Hà Nội). Dự án dược khởi công vào cuối năm 2005 và hoàn thành vào cuối năm 2007 do Công ty TNHH Hà Việt-Tung Shing làm chủ đầu tư với vốn đầu tư khoảng 50 triệu USD. (10) Nhà máy dệt may tại khu công nghiệp Lai Vu: Tháng 8/2013, UBND tỉnh Hải Dương cho biết, Tập đoàn Crystal của HongKong (Trung Quốc) sẽ đầu tư khoảng 425 triệu USD vào dự án dệt Pacific Crystal và 120 triệu USD vào dự án may Tinh Lợi mở rộng, sử dụng khoảng hơn 70 hecta đất tại khu công nghiệp Lai Vu.
3. Kỳ vọng về một kỷ nguyên phát triển mới trong quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa 2 nước sau chuyến thăm của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình
Tại sân bay quốc tế Nội Bài, sau khi chuyên cơ hạ cánh, Tổng Bí thư, Chủ tịch Tập Cận Bình đã có Thông điệp gửi đến toàn thể các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam, Thông điệp có đoạn: "Tôi rất vui mừng khi bắt đầu chuyến thăm cấp Nhà nước lần thứ tư tới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Tô Lâm và Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí Lương Cường...”.
Theo người đứng đầu Đảng và Nhà nước Trung Quốc, “năm 2025 là năm có ý nghĩa đặc biệt đối với Việt Nam, đánh dấu kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 80 năm ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và 50 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đang tiến bước, thực hiện hai mục tiêu 100 năm của Đảng và đất nước. Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, vị thế quốc tế và khu vực ngày càng vững chắc, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ”. Đồng thời, năm 2025 cũng là năm tròn ¾ thế kỷ 2 nước thiết lập quan hệ ngoại giao và cũng là Năm giao lưu nhân văn Trung Quốc-Việt Nam 2025, tạo ra những cơ hội mới để thúc đẩy việc xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Trung-Việt. Trên cột mốc lịch sử này, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định, Trung Quốc sẵn sàng cùng Việt Nam gìn giữ và phát huy tình hữu nghị truyền thống lâu đời, cùng chia sẻ sứ mệnh cao cả, nắm bắt cơ hội thời đại, tăng cường hợp tác với tiêu chuẩn cao hơn, trên nhiều lĩnh vực và ở mức độ sâu sắc hơn, nhằm mang lại lợi ích thiết thực hơn cho nhân dân hai nước, cho khu vực và toàn thế giới.
Hội đàm trong khuôn khổ chuyến thăm, lãnh đạo hai bên tập trung trao đổi, thảo luận trên các lĩnh vực chính là chính trị, an ninh, hợp tác thực chất, cơ sở dư luận, hợp tác đa phương và vấn đề hàng hải. Đồng thời, thúc đẩy quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước ngày càng sâu sắc, thiết thực hơn, mang lại lợi ích hơn cho người dân hai nước. Với sự tin tưởng lẫn nhau, lãnh đạo 2 bên cam kết thực hiện những nội dung đã được 2 nhà lãnh đạo cao nhất của 2 nước đã xác định trong chuyến thăm Việt Nam năm 2023 của Tổng Bí thư, Chủ tịch Tập Cận Bình và chuyến thăm Trung Quốc năm 2024 của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm.
Cũng trong khuôn khổ chuyến thăm Việt Nam của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, sau hội đàm (chiều 14.4.2025), Tổng Bí thư Tô Lâm và Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã cùng xem và nghe giới thiệu về 45 văn bản thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực được ký kết giữa các ban, bộ, ngành, địa phương hai nước, thể hiện thành quả phong phú, toàn diện mà hai bên đạt được trong chuyến thăm lần này. Trên lĩnh vực giao thông, đã có 7 văn kiện quan trọng trong lĩnh vực đường sắt và đường bộ được ký kết, góp phần thúc đẩy hợp tác giao thông vận tải Việt Nam-Trung Quốc.

45 văn bản được ký kết nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Ảnh: Báo Người lao động.
Tổng Bí thư Tô Lâm và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình nhất trí quyết tâm thúc đẩy quan hệ Việt-Trung phát triển vững chắc, ổn định, bền vững, lâu dài và hiệu quả hơn nữa trên tầm cao mới của quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện. Hai nhà lãnh đạo cho rằng, gần 2 thập kỷ kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện vào năm 2008 đến nay, và với phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” cùng tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, hợp tác trên các lĩnh vực đã đạt được nhiều tiến triển tích cực, toàn diện; quan hệ hai Đảng, hai nước không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu.
Bên cạnh việc nhấn mạnh đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại cũng như chính sách quốc phòng “4 không”, Việt Nam đang chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, thực hiện cam kết: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Trong quan hệ với Trung Quốc, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định, Việt Nam coi phát triển quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu và là sự lựa chọn chiến lược; ủng hộ nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa phát triển lớn mạnh, đóng góp ngày càng quan trọng hơn vào sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Với chuyến thăm mang ý nghĩa lịch sử của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và những cam kết của lãnh đạo cao nhất của 2 bên, kỳ vọng về kỷ nguyên phát triển mới trong quan hệ giữa 2 nước sẽ được triển khai nhanh và sớm trở thành hiện thực./.
Nguyễn Đình Thiện - Phạm Hồng Minh - Lê Quang Mạnh
Tài liệu tham khảo