1. Những dấu mốc lịch sử trong quan hệ hai nước kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao
Giai đoạn trước khi thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức (trước năm 1950)
Quan hệ Việt - Nga đã có từ lâu đời, vào giữa thế kỷ XIX, khi tàu thủy của Nga đã cập cảng Sài Gòn (1). Từ năm 1906, cơ quan lãnh sự đầu tiên của Nga đã xuất hiện tại Sài Gòn (2). Tuy cách xa hàng vạn dặm, nhưng Việt Nam - Liên Xô đã có sự tiếp xúc từ rất sớm và trở nên gần gũi hơn từ sau Cách mạng tháng Mười năm 1917 thông qua vai trò của Nguyễn Ái Quốc - người cộng sản đầu tiên ở Đông Dương (3). Cho đến trước khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, rất nhiều các đồng chí lãnh đạo, các bậc tiến bối của cách mạng Việt Nam đã sang Liên Xô học tập, hoạt động cách mạng, như: Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong, Nguyễn Khánh Toàn, Trần Văn Giàu… Liên Xô là chiếc nôi nuôi dưỡng, giáo dục, đào tạo và rèn luyện các bậc tiến bối lão thành của cách mạng Việt Nam, giúp Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tương lai.
Giai đoạn hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao đến khi Liên Xô bị sụp đổ (1950-1991)
Trong bối cảnh cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đang diễn ra ác liệt, tháng 01-1950, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu và Trung Quốc đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, khẳng định địa vị pháp lý của chính thể dân chủ cộng hòa lần đầu tiên được xác lập ở Việt Nam. Suốt 40 năm (1950-1991), trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, Liên Xô luôn giương cao khẩu hiệu “đối với những người cộng sản Liên Xô, đoàn kết với Việt Nam là mệnh lệnh của trái tim và trí tuệ”. Quan hệ Xô - Việt ngày càng được củng cố và phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Sau khi Việt Nam kháng chiến thành công, thống nhất đất nước (năm 1975), Liên Xô vẫn tiếp tục giúp đỡ Việt Nam xây dựng lại đất nước sau nhiều năm bị chiến tranh tàn phá. Đây là giai đoạn liên minh hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt - Xô.
Giai đoạn nước Nga thay thế vị trí của Liên Xô, hai nước Việt - Nga đều gặp khó khăn khủng hoảng toàn diện (1991-1994)
Năm 1991, Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết tan rã. 15 nước cộng hòa thành viên của Liên Xô trở thành những quốc gia độc lập. Riêng Liên bang Nga trở thành nước kế thừa Liên Xô trong các mối quan hệ quốc tế. Thời điểm này, quan hệ Việt - Nga chuyển sang giai đoạn mới: vừa kế thừa, tiếp nối, vừa có những thay đổi về chất, điều chỉnh căn bản so với quan hệ Xô - Việt trước đây, quan hệ trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi và trải qua những thăng trầm, là giai đoạn khó khăn nhất trong quan hệ Việt - Nga. Mối quan hệ lúc này bị ngưng trệ, suy giảm mạnh. Nguyên nhân chủ yếu là do hai bên đều xác định lại hệ thống các lợi ích quốc gia của mình, cũng như sự ưu tiên đối ngoại của từng nước đã trở nên rất khác nhau trong bối cảnh quốc tế mới sau Chiến tranh lạnh. Liên bang Nga theo đuổi chính sách đối ngoại “định hướng Đại Tây Dương”, ưu tiên các nước tư bản phương Tây. Đối với Việt Nam, cải thiện quan hệ với các nước láng giềng, các nước Đông Nam Á được đặt lên hàng đầu.
Giai đoạn 25 năm ký kết Hiệp ước nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam với Liên bang Nga (16-6-1994 - 16-6-2019)
Từ năm 1994, Liên bang Nga đã có những điều chỉnh quan trọng, căn bản, có tính chất bước ngoặt trong chính sách đối ngoại. Nga đã lấy “định hướng Âu - Á” (cân bằng quan hệ cả hướng Tây lẫn hướng Đông) thay cho “định hướng Đại Tây Dương”, nhằm khắc phục tình trạng phiến diện, đầy ảo tưởng trong quan hệ với Mỹ và các nước phương Tây, đồng thời, chú trọng phát triển quan hệ hợp tác với các nước châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là các nước SNG, Trung Quốc, Ấn Độ, ASEAN. Trong triển khai chính sách đối ngoại “định hướng Âu - Á”, khu vực Đông Nam Á đã được Nga đề cao hợp tác. Nga đã mở rộng quan hệ song phương với từng nước trong khu vực ASEAN, đồng thời, đã đẩy mạnh hợp tác đa phương với khu vực này. Tháng 4-1994, Nga trở thành một trong số 18 nước tham gia Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF) và là một trong 10 bên đối thoại đầy đủ của ASEAN vào tháng 7-1996. Đây là giai đoạn quan hệ Việt - Nga được nâng cao về chất. Hai bên đã ký kết “Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Liên bang Nga” vào ngày 16-6-1994 trong chuyến thăm hữu nghị của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, thay cho Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác Việt - Xô (tháng 11-1978) đã hết hiệu lực. Đây là nền tảng pháp lý, sự kiện quan trọng, mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, khác về chất so với quan hệ Việt - Xô trước đây.
Trong 25 năm qua (1994 - 2019), mối quan hệ hợp tác giữa hai nước đã dần được nâng cấp. Năm 2001, quan hệ đối tác chiến lược được xác lập và đi vào chiều sâu. Sự kiện đáng chú ý nhất trong giai đoạn này là chuyến thăm Việt Nam đầu tiên của một nguyên thủ quốc gia Nga (kể cả thời Liên Xô) - chuyến thăm của Tổng thống Liên bang Nga V.Putin (từ ngày 28-02-2001 đến ngày 02-3-2001). Trong chuyến thăm này, hai nước đã ký tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược cùng nhiều văn kiện hợp tác, xác định khuôn khổ pháp lý mới cho hợp tác Việt Nam - Liên bang Nga trên cơ sở tin cậy, chặt chẽ, lâu dài. Mối quan hệ hợp tác toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh, văn hóa - xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, du lịch... đều được hai nước thúc đẩy mạnh mẽ, phát triển không ngừng. Trước những nhu cầu đòi hỏi của hai bên, để phù hợp với hợp tác đối tác chiến lược trong bối cảnh quốc tế mới, ngày 27-12-2012, Việt Nam và Liên bang Nga đã ra tuyên bố chung về nâng cấp và tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Liên bang Nga.
Trong những năm gần đây, mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước đã đi vào chiều sâu và ngày càng có hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực. Việt Nam coi Nga là ưu tiên cao trong chính sách đối ngoại với tư cách là nước bạn bè truyền thống, một cường quốc thế giới và đối tác chiến lược toàn diện. Bên cạnh đó, Việt Nam đã trở thành đối tác chiến lược quan trọng của Nga tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và đối tác hàng đầu ở Đông Nam Á. Giữa hai nước thường xuyên diễn ra các chuyến thăm hữu nghị chính thức, các cuộc hội đàm, gặp gỡ, trao đổi trên cơ sở nhất trí, có chung quan điểm, nhận thức về nhiều vấn đề quốc tế, cũng như trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á. Năm 2019 được coi là năm “hợp tác, giao lưu chéo” giữa hai nước, năm Việt Nam tại Nga và năm Nga tại Việt Nam (4).
2. Vấn đề thực hiện các điều ước quốc tế song phương đã ký kết giữa hai nước từ năm 2001 đến năm 2018
Tình hình và kết quả thực hiện các điều ước quốc tế song phương đã ký kết giữa hai nước Việt - Nga
Theo thống kê của Bộ Ngoại giao Việt Nam, từ năm 2001 đến năm 2018, hai nước Việt Nam - Liên bang Nga đã ký kết 56 điều ước đang có hiệu lực. Qua rà soát, đánh giá kết quả thực hiện của các bộ, ngành của Việt Nam về 56 điều ước đã ký kết giữa hai nước, phần lớn các ý kiến đều cho rằng, thành tựu hợp tác trong các lĩnh vực giữa hai nước rất lớn và có ý nghĩa. Trong 56 điều ước đã ký kết giữa hai bên, hợp tác địa phương là một điểm sáng trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt - Nga. Trong giai đoạn 2001-2018, thông qua việc ký kết các thỏa thuận quốc tế, nhiều cặp quan hệ địa phương của Việt Nam và Liên bang Nga đã được thành lập, đang triển khai tích cực các lĩnh vực hợp tác và mang lại những kết quả thực chất, rất đáng ghi nhận (5).
Nhìn chung, các bộ, ngành, địa phương đều tuân thủ nguyên tắc trình tự, thủ tục ký kết và triển khai các điều ước; phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp trong việc lấy ý kiến kiểm tra, thẩm định điều ước quốc tế, rà soát, đánh giá tính tương thích giữa các dự thảo điều ước quốc tế, văn bản quy phạm pháp luật với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên...(6)
Những hạn chế, vướng mắc
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong thời gian qua, việc thực hiện các điều ước quốc tế song phương đã ký kết giữa hai nước còn có những hạn chế, vướng mắc như: (1) Các bộ, ngành, địa phương còn chậm triển khai các thỏa thuận hai bên đã ký kết (7). (2) Sự phối hợp trong việc cập nhật thông tin về tình trạng đàm phán các văn kiện chưa được thường xuyên, chú trọng, do đó, việc thúc đẩy ký kết văn bản, đặc biệt trước thềm các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai bên còn gặp khó khăn (8). (3) Một số điều ước quốc tế đã ký, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, còn nhiều vướng mắc trong triển khai. Nguyên nhân chính do các cơ quan chủ trì chưa đánh giá hết các tác động khi đàm phán, ký kết điều ước quốc tế (như các điều ước quốc tế về hợp tác xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận I...). Ngoài ra, các tập đoàn nhà nước được chuyển giao về Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước đang làm phát sinh một số khó khăn trong triển khai các điều ước quốc tế liên quan đến tập đoàn nhà nước vì các điều ước quốc tế này trước đây được các bộ, ngành chủ quản đàm phán, ký kết và triển khai (9). (4) Việc đàm phán, ký kết và tổ chức các điều ước quốc tế phụ thuộc rất nhiều vào sự sẵn sàng của các bên trong triển khai thực hiện, đặc biệt liên quan đến nguồn lực tài chính triển khai các dự án đầu tư ưu tiên của Nga. Hiện nay, trong số 17 dự án đầu tư ưu tiên với Nga, có 4 dự án chưa tìm được đối tác Việt Nam, 01 dự án cung cấp máy bay Su khôi Superjet và 01 dự án về xây dựng khu công nghiệp nhẹ tại Nga không triển khai được. Một số dự án trong khuôn khổ của tổ công tác hợp tác Việt - Nga cũng đã bị tác động mạnh bởi lệnh cấm vận của Hoa Kỳ và EU, áp dụng từ đầu năm 2018 đến nay (10). (5) Ngân sách của Việt Nam còn hạn hẹp, chưa đáp ứng về tài chính trong triển khai các đề án. Nguồn nhân lực khoa học và công nghiệp của Việt Nam chưa thực sự đổi năng lực để đề xuất xây dựng các dự án R&D mang tầm quốc tế. Nguyên nhân là do cơ sở vật chất, kỹ thuật không đồng bộ, môi trường làm việc không chuyên nghiệp, thiếu cán bộ và nhân viên kỹ thuật nhiều kinh nghiệm nên gặp rất nhiều khó khăn trong triển khai thực hiện các đề án (11). (6) Do có nhiều thay đổi trong hệ thống giáo dục của hai nước, nên việc cập nhật, sửa đổi, bổ sung các văn bản còn chưa được triển khai kịp thời, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai các điều ước quốc tế mà hai bên đã ký kết12. (7) Tồn tại những bất cập, cách xử lý khác nhau giữa hai bên Việt - Nga trong việc thu thuế thu nhập cá nhân của lao động người Nga tại Liên doanh Dầu khí Vietsovpetro. Và hai bên Việt - Nga cũng triển khai thực hiện khác nhau trong việc cung cấp ưu đãi hàng hóa và dịch vụ do Nga sản xuất, tương tự với hàng hóa, dịch vụ được sản xuất tại Việt Nam (13).
3. Một số giải pháp cần thực hiện
hai bên cùng phát triển mạnh mẽ, trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, cần phát huy các cơ chế hiện có giữa hai nước như Ủy ban liên chính phủ, Ủy ban liên nghị viện Việt - Nga, nhằm thúc đẩy đàm phán, triển khai, rà soát, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các điều ước quốc tế. Không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động và vai trò của cơ chế này (14).
Hai là, cần đẩy mạnh công tác thông tin, bổ sung, cập nhật các điều khoản, nội dung của điều ước quốc tế giữa Việt Nam với Liên bang Nga nhằm nâng cao chất lượng các điều ước quốc tế đã ký kết.
Ba là, cần có cơ chế linh hoạt cho việc đàm phán các điều ước quốc tế có điều khoản chưa hoàn toàn tương thích với luật pháp hiện hành của Việt Nam, nhưng có lợi cho Việt Nam (như dự thảo Hiệp định về điều kiện đi lại của công dân hai nước. Phía Nga đề xuất đơn giản hóa thủ tục cấp thị thực, cấp thị thực nhiều lần với thời hạn 5 năm cho một số đối tượng công dân Việt Nam, trên cơ sở có đi có lại...) (15).
Bốn là, thông qua kênh ngoại giao để thúc đẩy mạnh mẽ sự hợp tác, phát triển của các ngành như kinh tế, văn hóa, giáo dục, an ninh, quốc phòng, giao thông, tài chính, du lịch, lao động... của Việt Nam.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, sửa đổi, bổ sung các quy định về ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế theo hướng đảm bảo thủ tục, trình tự thuận lợi; làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan chủ trì, đề xuất các điều ước quốc tế mới; phối hợp chặt chẽ các cơ quan bộ, ngành, địa phương... trong triển khai, đánh giá, kiểm tra thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết (16).
Đinh Công Tuấn
Viện trưởng Viện nghiên cứu quốc tế - Đại học Đại Nam
Nguồn Tạp chí lý luận chính trị CAND
1 Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga (1991-2005), http://www.hcmup.edu.vn/index.php? view = article & catid = 1513% 3Avid-nam-hin-i&id = 2201%3A quan-he-viet-nam-lien-bang-Nga-1991-2000&tmpl = component&pri...
2, 4 Bài phát biểu của Đại sứ Nga tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, ngày 02-11-2018.
3 65 năm quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga. http://hpn.quangbinh.gov.vn/3cms/ban-in-507.htm?art = 1437971882451.
5 Công văn số 19, ngày 03-01-2019 của Bộ Ngoại giao.
6, 9, 11, 15, 16 Công văn số 755, ngày 05-3-2019 của Bộ Ngoại giao Việt Nam,.
7, 8, 14 Công điện của Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga, số 24, ngày 13-3-2019.
10, 13 Công văn số 154, ngày 04-3-2019 của Bộ Công thương.
12 Báo cáo số 35, ngày 04-3-2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.