Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, coi đây là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, sự tồn vong của chế độ. Người cho rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” (1). Do vậy, Người luôn đề cao đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, biết vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Thấm nhuần lời dạy của Bác, những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Công an, sự phối hợp của các đơn vị chức năng, Học viện Chính trị Công an nhân dân đã thực hiện nhiều biện pháp, giải pháp gắn với tư tưởng, quan điểm của Người nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng của Học viện với các nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, tính toàn diện trong công tác đào tạo, bồi dưỡng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Trong giáo dục và học tập, phải chú trọng các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động, sản xuất. Theo Người, trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, kiến thức là rất cần thiết, nhưng đào tạo, bồi dưỡng về đạo đức đóng vai trò quan trọng. Nói chuyện với cán bộ, sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ngày 21-10-1964, Người chỉ rõ: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng đến cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng” (2).
Quán triệt tư tưởng trên, trong xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng, ngoài tuân thủ theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công an về cấu trúc phù hợp giữa khối kiến thức, Học viện đã xây dựng các học phần ở các khối kiến thức hợp lý nhằm trang bị một cách có hệ thống, giúp học viên hình thành thế giới quan khoa học, phương pháp học tập, nghiên cứu ở bậc đại học, nắm được những lý luận cơ bản, nền tảng về những vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản và bổ sung, cập nhật những kiến thức mới; chú trọng, tăng cường các học phần chuyên ngành để rèn luyện tay nghề theo chuyên ngành đào tạo cho học viên.
Bên cạnh đó, Học viện chú trọng bổ sung, rèn luyện các kỹ năng mềm như: ngoại ngữ, tin học, lái xe, võ thuật... là những kiến thức thực tế rất quan trọng giúp cho học viên ra trường được phân công về công an các địa phương, đơn vị có thể bắt kịp và hòa nhập nhanh với môi trường công tác mới.
Cùng với đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho học viên, Học viện luôn chú trọng tiến hành công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; thường xuyên tổ chức quán triệt các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của ngành, góp phần hình thành nhân cách, nền nếp sinh hoạt, học tập và rèn luyện. Ban Giám đốc Học viện và các đơn vị chức năng tổ chức đối thoại định kỳ 3 tháng 1 lần với học viên để kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, uốn nắn những hạn chế của học viên và có biện pháp quản lý phù hợp, hiệu quả.
Thứ hai, học phải đi đôi với hành.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, học phải gắn với hành, học mà không hành, không áp dụng vào thực tế khác nào chiếc hòm đựng đầy sách, hành mà không học thì hành không trôi chảy. Người cho rằng: “Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác... Y muốn thành người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế” (3). Người phân tích: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên. Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem loè thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích. Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành” (4).
Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về học phải đi đôi với hành, thời gian qua, Học viện đã vận dụng sâu sắc với những nội dung cụ thể:
Đối với chương trình đào tạo các khóa đại học chính quy, Học viện đã tổ chức nhiều hoạt động gắn lý luận với thực hành cho học viên như: Tổ chức cho học viên các khóa học đi thực hành công tác dân vận; đi tham quan, học tập thực tế, về nguồn tại nhiều khu di tích lịch sử cách mạng nhằm giáo dục truyền thống, củng cố kiến thức, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị cho học viên; tổ chức cho học viên đi thực tập tốt nghiệp tại công an các địa phương trong thời gian 04 tháng để tiếp xúc toàn diện với các mặt công tác của công an cơ sở, thật sự sâu sát với thực tiễn. Bên cạnh đó, Học viện còn thường xuyên tổ chức hoạt động ngoại khóa bổ trợ kiến thức và các kỹ năng mềm cho học viên để vận dụng các kiến thức đã học vào giải quyết các tình huống cụ thể đặt ra.
Đối với chương trình đào tạo các lớp bồi dưỡng chức danh, Học viện tăng cường đưa vào chương trình các báo cáo thực tế, mời những đồng chí lãnh đạo, chỉ huy có nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực công tác, chiến đấu để cung cấp những kiến thức thực tế, hướng dẫn tay nghề cho học viên; đồng thời, thường xuyên tổ chức đi thực tế tại công an các đơn vị, địa phương nhằm tạo điều kiện cho học viên trao đổi, rút ra những kinh nghiệm trong giải quyết tình huống, thực hiện nhiệm vụ tại đơn vị.
Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn cuộc sống, lý luận gắn với thực tiễn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Học để làm việc, để làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại” (5); “Dạy và học cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của Nhà nước. Thầy dạy tốt, trò học tốt, cung cấp đủ cán bộ cho nông nghiệp, công nghiệp, cho các ngành kinh tế và văn hóa. Đó là nhiệm vụ vẻ vang của các thầy giáo, cô giáo” (6).
Quán triệt, vận dụng quan điểm nêu trên, Học viện luôn xác định mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với mục tiêu, yêu cầu về xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong tình hiện nay; công tác đào tạo, bồi dưỡng phải góp phần bổ sung, tăng cường đội ngũ cán bộ có chất lượng cao theo hướng chuyên môn, chuyên nghiệp để xây dựng chương trình, tổ chức quá trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Thời gian qua, nhằm góp phần triển khai Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 15-3-2018 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Bộ Công an sẽ tăng cường công an chính quy xuống công an cấp xã. Để đáp ứng yêu cầu này, Học viện Chính trị Công an nhân dân đã chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức bổ sung kiến thức cho học viên các khóa học, trong đó tập trung vào một số chuyên đề mà công an cơ sở phải thường xuyên giải quyết, xử lý để giảng dạy cho học viên.
Quá trình triển khai xây dựng các chương trình đào tạo, Học viện đã tổ chức khảo sát nhu cầu đào tạo của Công an các đơn vị, địa phương; đồng thời, tổ chức các hội nghị, hội thảo để lấy ý kiến rộng rãi từ các chuyên gia, nhà khoa học và công an các đơn vị, địa phương với mục đích sản phẩm đầu ra của công tác đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi thực tiễn về đội ngũ cán bộ theo từng lĩnh vực. Thường xuyên cập nhật những kiến thức thực tiễn để truyền đạt cho học viên; giáo trình, tài liệu dạy học được cập nhật, chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế công tác công an.
Thứ tư, phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đội ngũ giáo viên giữ một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng, họ là người quyết định thành công sự nghiệp giáo dục, đào tạo của quốc gia. “Không có thầy giáo thì không có giáo dục” (7), câu nói đó của Người khẳng định vai trò không thể thay thế của người giáo viên trong sứ mệnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Xuất phát từ quan điểm nêu trên, ngay sau khi thành lập, Học viện xác định để công tác bồi dưỡng cán bộ đi vào chiều sâu và đạt hiệu quả cao nhất, một yêu cầu quan trọng là phải xây dựng được đội ngũ giảng viên có kiến thức chuyên môn sâu, kiến thức thực tế vững vàng đảm bảo mục tiêu, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng của Học viện.
Trên cơ sở kế hoạch tổng thể của Bộ Công an, Học viện đã báo cáo lãnh đạo Bộ Công an đồng ý điều động giảng viên thuộc các khoa, bộ môn của các cơ sở đào tạo trong Công an nhân dân có chức năng, nhiệm vụ phù hợp và số cán bộ nghiên cứu tại công an các đơn vị, địa phương về Học viện, trong đó chú trọng đội ngũ giảng viên có trình độ từ tiến sĩ trở lên. Quá trình tuyển chọn, Học viện đã báo cáo và được lãnh đạo Bộ Công an đồng ý cho tổ chức thi tuyển đội ngũ giảng viên theo đúng quy định của Nhà nước, qua đó, đã tuyển chọn được đội ngũ giảng viên cơ bản đáp ứng được nhu cầu công tác giáo dục, đào tạo trước mắt và lâu dài của Học viện.
Bên cạnh đó, Học viện còn chú trọng xây dựng đội ngũ giảng viên kiêm nhiệm là các nhà khoa học có uy tín của các cơ sở đào tạo lớn và các đồng chí là lãnh đạo các đơn vị chức năng có kinh nghiệm thực tế công tác, chiến đấu trên các lĩnh vực đã tham gia giảng dạy các chuyên đề, tham gia bồi dưỡng, hướng dẫn đội ngũ giảng viên để truyền đạt các kiến thức, kinh nghiệm thực tế trong công tác, chiến đấu để truyền đạt trong các chuyên đề, giúp cho học viên có kiến thức để vận dụng trong quá trình công tác.
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước và ngành Công an trong đào tạo, bồi dưỡng, thời gian tới, Học viện cần tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, tăng cường công tác phát triển chương trình đào tạo theo hướng bám sát thực tiễn.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và các đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị quyết số 22-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 26-NQ/TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, thời gian tới, công tác cán bộ của Đảng nói chung và công tác cán bộ trong lực lượng Công an nhân dân nói riêng sẽ có nhiều thay đổi. Do đó, việc tổ chức đào tạo cán bộ công an phải gắn với mục tiêu, yêu cầu của việc triển khai các nghị quyết nêu trên.
Xuất phát từ bối cảnh trên, thời gian tới, Học viện cần chú trọng công tác phát triển chương trình đào tạo, thường xuyên bổ sung, cập nhật kiến thức nhằm hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm đạt hiệu quả giáo dục và đào tạo, góp phần xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh toàn diện. Đồng thời, nhằm tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu công tác bảo đảm an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong tình hình mới, Học viện cần điều chỉnh các chuyên ngành thuộc các ngành đang tổ chức đào tạo cho phù hợp với thực tiễn, mở rộng các chuyên ngành đào tạo, đào tạo theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ giảng viên vững mạnh về mọi mặt, xem đó là yếu tố tiên quyết nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Xây dựng đội ngũ giảng viên có trình độ, năng lực và phương pháp sư phạm đáp ứng mục tiêu giảng dạy là một nhiệm vụ quan trọng của Học viện góp phần đảm bảo chất lượng công tác đào tạo. Để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, Học viện có kế hoạch bồi dưỡng, xác định chuẩn nội dung, linh hoạt về hình thức, thời gian mở các lớp bồi dưỡng cho giảng viên, tập trung vào những vấn đề đội ngũ giảng viên còn yếu, còn hạn chế, như: ngoại ngữ, tin học, kiến thức thực tế (đối với giảng viên trẻ), phương pháp giảng dạy sư phạm tích cực, ứng dụng công nghệ thông tin, biên soạn và giảng dạy bằng giáo án điện tử...; kết hợp bồi dưỡng ngắn hạn và phải có chiến lược đào tạo đội ngũ giảng viên, ưu tiên nhưng không hạ thấp tiêu chuẩn, có kế hoạch tạo nguồn để đạt tiêu chuẩn chọn giảng viên đi đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, nâng cao một cách cơ bản trình độ đội ngũ giảng viên Học viện.
Thực hiện nghiêm các quy định về tổ chức cho giảng viên đi thực tế, điều chuyển giảng viên chuyên ngành đến công tác có thời hạn ở công an các đơn vị, địa phương nhằm giúp cho giảng viên thu được lượng kiến thức thực tế phong phú, cập nhật vào giảng dạy.
Nâng cao trách nhiệm của đội ngũ giảng viên cả trong giảng dạy kiến thức và trong giáo dục, rèn luyện học viên. Thường xuyên quan tâm đến các phong trào thi đua dạy tốt và giáo dục đạo đức, lối sống, nhân cách cho giảng viên; có chế độ chính sách phù hợp, đảm bảo điều kiện làm việc, nghiên cứu khoa học; phát huy tốt năng lực sáng tạo và tâm huyết nghề nghiệp của đội ngũ giảng viên.
Ba là, hoàn chỉnh hệ thống giáo trình, tài liệu dạy học; tăng cường số lượng và chất lượng hệ thống tài liệu tham khảo phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng.
Nâng cao nhận thức về vai trò quan trọng của giáo trình, tài liệu dạy học cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, đồng thời nâng cao trình độ, trách nhiệm của đội ngũ tham gia công tác biên soạn. Thực hiện tốt quy trình công tác nghiên cứu, biên soạn giáo trình, tài liệu dạy học và các chế độ động viên, khen thưởng như khuyến khích vật chất, công nhận kết quả nghiên cứu khoa học, khen thưởng tinh thần... Tăng cường ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học vào việc biên soạn, chỉnh lý, bổ sung giáo trình, tài liệu dạy học.
Để tạo được tính liên thông trong chương trình đào tạo, liên thông giữa các môn học, công tác biên soạn các chương trình và giáo trình phải được chỉ đạo thông suốt, nhất quán và sát sao ngay từ đầu. Chính vì vậy, trong thời gian tới, Học viện cần rà soát, chỉnh lý hệ thống giáo trình, tài liệu dạy học hiện có theo hướng cập nhật kiến thức mới, chuẩn hóa nội dung theo yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; xây dựng, điều chỉnh, bổ sung nội dung chương trình đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp đào tạo; áp dụng chương trình đào tạo tiên tiến. Tập trung hoàn thiện hệ thống giáo trình, tài liệu dạy học, sách tham khảo các ngành, chuyên ngành đào tạo theo hướng chú trọng nội dung về kỹ năng, giáo dục đạo đức, phẩm chất nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng trong từng giai đoạn; sử dụng đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học có kinh nghiệm tham gia xây dựng, phát triển hệ thống chương trình, giáo trình, tài liệu, sách tham khảo. Kết hợp chặt chẽ hoạt động nghiên cứu khoa học với đào tạo, bồi dưỡng; tập trung nghiên cứu các đề tài khoa học phục vụ cho việc đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo.
Bốn là, đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học, rèn luyện năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn của người học.
Giảng viên cần tăng cường sử dụng phương pháp đối thoại, gợi mở vấn đề để lôi cuốn học viên cùng tư duy, có thể phản biện chính nội dung đang nghiên cứu. Những phương pháp như đối thoại, nêu vấn đề, thảo luận nhóm... có thể thực hiện thông tin hai chiều, giải đáp kịp thời những vấn đề người học quan tâm và đặt ra các tình huống “có vấn đề” để cuốn hút học viên tham gia giải quyết trong quá trình nhận thức.
Giảng viên phải xây dựng bài giảng theo giáo án điện tử phù hợp với từng đối tượng học viên. Các bài giảng phải thường xuyên cập nhật kiến thức mới, kiến thực thực tiễn, lý giải những nguyên lý trừu tượng bằng những minh họa cụ thể, dễ hiểu, sống động, đặt ra nhiều tình huống, giả thuyết để học viên tự tìm phương án giải quyết vấn đề, tạo cho học viên sự say mê, khao khát hiểu biết tri thức lý luận chính trị thông qua tranh luận, thảo luận, xử lý tình huống, biết nêu những vấn đề mâu thuẫn giữa nhận thức lý luận và hiện tượng thực tế để học viên đào sâu suy nghĩ, tìm tòi bản chất vấn đề mà rút ra các tri thức lý luận cần thiết, khi nghiên cứu lý luận phải có tư duy độc lập, sáng tạo, tránh tiếp thu lý luận một cách giáo điều, máy móc.
Tống Văn Khuông- T29
Nguồn Tạp chí Lý luận chính trị CAND
(1), (3), (4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5 (1947-1948), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 309, 275, 275.
(2) Toàn tập, Tập 14 (1963-1965), Sđd, tr. 400.
(5) Toàn tập, Tập 6 (1949-1950), Sđd, tr. 280.
(6), (7) Toàn tập, Tập 10 (1955-1957), Sđd, tr. 291, 345.