Quá trình Đảng ta phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trải qua gần 50 năm thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra cơ đồ và vị thế mới trên trường quốc tế. Những thành tựu ấy gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng, trong đó những phát triển sáng tạo về lý luận xây dựng và phát triển đất nước, nhất là thời kỳ đổi mới, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, thành viên Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng dự phiên họp họp đầu tiên _Ảnh: TTXVN

Khái quát nhận thức lý luận giai đoạn trước đổi mới (những năm 1976 - 1986)

Nhận thức về mục tiêu, đặc trưng và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội

Đại hội IV của Đảng nhấn mạnh về mục tiêu của đất nước trong giai đoạn mới là: xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa (XHCN). Những nhiệm vụ trước mắt là thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc, cải tạo XHCN, hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (CNXH). Như vậy, mục tiêu cách mạng Việt Nam là xuyên suốt, tuy mỗi giai đoạn có điểm nhấn riêng.

Đường lối chung để đạt được mục tiêu đặt ra được Đại hội IV xác định là nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng (cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa), trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH; xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, xây dựng nền sản xuất lớn XHCN, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới XHCN; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu…; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và XHCN; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.

Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH cơ bản theo những định hướng phổ quát được xác định năm 1960 tại Đại hội các đảng cộng sản và công nhân ở Mát-xcơ-va(1), có những sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam và môi trường phát triển chung của khu vực và thế giới. Mặc dù mô hình phát triển trong giai đoạn 10 năm trước đổi mới vẫn trong khuôn khổ chế độ bao cấp, song những bước chuyển nhận thức trên rất quan trọng, đặt nền tảng để có bước đổi mới quyết định tại Đại hội VI của Đảng.

Nhận thức về các quy luật, các mối quan hệ

Báo cáo chính trị tại Đại hội IV của Đảng xác định: “Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước. Phải thông qua hoạt động của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng mà phát huy vai trò chủ động và trí sáng tạo của nhân dân”(2).

Đến Đại hội V (năm 1981), cùng với việc khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta đã cụ thể hóa một bước đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, đề ra những mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, Văn kiện Đại hội V của Đảng đã chỉ rõ: “… xét cho cùng là do chưa thực sự nắm chắc quy luật của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa được phản ánh trong đường lối của Đảng”(3).

Giai đoạn đổi mới từ năm 1986 đến năm 2016

Nhận thức về thời kỳ quá độ, đặc trưng, phương hướng xây dựng CNXH và các mối quan hệ lớn

Trước hết là, nhận thức về thời kỳ quá độ ngày càng rõ, hoàn thiện hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) xác định: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau”(4)Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định tinh thần Cương lĩnh năm 1991 và xác định, làm sáng tỏ hơn về những nội dung phát triển trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều loại hình sở hữu theo định hướng XHCN. Xây dựng nền văn hóa, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Cùng với nhận thức về tính lâu dài và nội dung của thời kỳ quá độ, Đảng ta cũng đã chỉ rõ điều kiện, nguồn lực để thực hiện các bước quá độ, xác định rõ lộ trình của thời kỳ quá độ. Hội nghị Trung ương 8 khóa VII (tháng 1-1995) khẳng định: Trong điều kiện không còn sự giúp đỡ của các nước XHCN, nhưng có thể tranh thủ được nguồn lực từ hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế; bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng kế thừa mọi thành tựu và kinh nghiệm của nhân loại, kể cả của chủ nghĩa tư bản. Đặc biệt, Đảng ta đã có nhận thức rõ về nội dung bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(5). Nhận thức có tính đột phá này đã tạo cơ sở cho các chính sách trong hội nhập phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết ngày càng tốt hơn nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ hai, nhận thức ngày càng rõ hơn về đặc trưng và phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốcBước vào thời kỳ đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông qua đã xác định 6 đặc trưng của xã hội XHCN ở Việt Nam. Các Đại hội tiếp theo đều khẳng định và làm rõ, bổ sung thêm nội hàm của 6 đặc trưng. Đặc biệt, đến Đại hội X và XI đã có những điều chỉnh, bổ sung, phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về CNXH. Tại Đại hội XI của Đảng, trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 nêu rõ 8 đặc trưng của xã hội XHCN mà Việt Nam xây dựng.

Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta đã xác định rõ hơn các phương hướng cơ bản, thể hiện trên các nội dung: 1- Xây dựng Nhà nước XHCN, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân; 2- Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; 3- Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN; 4- Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; 5- Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; 6- Xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng; 7- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.

Đặc biệt, đến Đại hội XI, trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng ta đã nêu 8 phương hướng cơ bản, qua đó bổ sung sáng tỏ so với Cương lĩnh năm 1991 về mô hình, mục tiêu; đồng thời, trong nội dung xây dựng CNXH nêu rõ và cụ thể hơn, trong nội dung phương hướng thể hiện rõ 3 trụ cột: Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho phát triển đất nước; kinh tế thị trường định hướng XHCN là công cụ, phương tiện giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH ở Việt Nam; Nhà nước pháp quyền XHCN là hình thức tối ưu bảo đảm quyền lực nhà nước của nhân dân và thực thi, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân. Đây là sự bổ sung sáng tạo mới của Đảng.

Thứ ba, về nhận thức các mối quan hệ lớn. Tại Đại hội VII, Đảng nêu những kinh nghiệm bước đầu trong đổi mới, đề cập đến mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, mối quan hệ giữa phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước(6)… Có thể nói, đây là những bước phát triển nhận thức rất quan trọng về các mối quan hệ, để tiến tới có sự khái quát rõ và ngày càng hệ thống, đầy đủ.

Tại Đại hội XI của Đảng (năm 2011), nhận thức về các mối quan hệ có bước phát triển mang tính hệ thống, khi lần đầu tiên 8 mối quan hệ lớn đã được đưa vào Văn kiện và Nghị quyết của Đại hội, gồm: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Như vậy, để thúc đẩy quá trình đổi mới, thực tiễn đặt ra yêu cầu phải giải quyết nhiều mối quan hệ. Những mối quan hệ này là tất yếu, cần được nhận thức, quán triệt và giải quyết tốt. Tuy nhiên, để nhận thức và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, Đảng ta nêu rõ phương châm và nguyên tắc phải xuất phát từ thực tiễn đất nước, chú trọng nghiên cứu, dự báo các xu hướng phát triển của đất nước và thế giới; từ đó, chủ động tận dụng các cơ hội, khắc phục, vượt qua thách thức, tôn trọng quy luật khách quan, “Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí”(7).

Sự phát triển nhận thức lý luận trong các lĩnh vực chủ yếu

Thứ nhất, sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ là đột phá lớn về lý luận. Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tiếp tục được hoàn thiện qua các kỳ đại hội Đảng và đã hoàn thiện hơn tại Đại hội XII của Đảng với việc khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh””(8). Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Đây là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về CNXH và con đường đi lên CNXH, đặc biệt những chỉ dẫn của V.I. Lê-nin trong Chính sách kinh tế mới; đồng thời, xuất phát từ tổng kết thực tiễn phát triển của Việt Nam. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đưa ra khái niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới”(9) của Đảng.

Thứ hai, nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có những điều chỉnh cơ bản. Tại Đại hội VI (tháng 12-1986), với đường lối đổi mới, Đảng ta xác định cần tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo và cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa với việc thực hiện 3 chương trình: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

Tại Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta chỉ rõ mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam đến năm 2020 là: Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta xác định rõ đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo phương thức rút ngắn, vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là nhằm bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Quá trình này phải đi đôi với chủ động hội nhập quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước.

Tại Đại hội X (năm 2006), trên cơ sở những thành tựu đã đạt được và trước bối cảnh mới, Đảng ta chủ trương: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”(10). Đến Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta xác định: “… thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế”(11).

Thứ ba, lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người đã có phát triển mới khi khẳng định nền văn hóa Việt Nam hướng đến là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, năm 1998). Đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001), Đảng ta tiếp tục khẳng định tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII và xem: “Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(12). Đại hội X của Đảng nêu quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và yêu cầu “tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”(13).

 

Đại hội XI của Đảng trên tinh thần kế thừa khẳng định vai trò của văn hóa còn nhấn mạnh hơn đến vai trò của con người, coi “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”(14).

Nhận thức về nguồn lực, cơ chế giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình đổi mới cũng có bước đột phá, khi xác định rõ Nhà nước có vai trò chủ đạo, nhưng cần phát huy vai trò doanh nghiệp/thị trường và các tổ chức xã hội cùng tham gia giải quyết. Để phát triển bền vững, tạo môi trường xã hội thuận lợi cho tăng trưởng, cần có hệ thống chính sách xã hội phù hợp, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người. Đây là bước đổi mới rất cơ bản trong nhìn nhận về phạm vi và chất lượng chính sách xã hội trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Thứ tư, lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đã có bước phát triển, thể hiện ở sự khẳng định bản chất của Đảng. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”(15).

Những thành tựu phát triển lý luận của Đảng về Nhà nước pháp quyền XHCN thể hiện ở 6 nội dung chủ yếu là: 1- Luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân; nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước; nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; 2- Tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân; 3- Kiên quyết, kiên trì giữ vững sự tôn nghiêm của Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc về nhân dân, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; 4- Công tác cán bộ trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự là “then chốt của then chốt”, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ thi hành pháp luật các cấp có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cán bộ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu; 5- Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN luôn xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững, có quyết tâm chính trị cao, với bước đi, lộ trình phù hợp; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; bảo đảm hài hòa giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển; 6- Nhận thức đúng đắn và bảo đảm sự lãnh đạo sát sao của các cấp ủy, tổ chức đảng là yếu tố quan trọng hàng đầu bảo đảm thực hiện thành công các nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện Nhà nước Việt Nam pháp quyền XHCN, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh và nhất quán...

Thứ năm, lĩnh vực quốc phòng - an ninh và đối ngoại có nhiều đổi mới. Đảng xác định việc củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên. Đây là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong Cương lĩnh năm 1991, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định cụ thể: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước”(16). Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định và làm rõ thêm: “Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt”(17).

Đại hội IX của Đảng (năm 2001) tiếp tục có sự phát triển mới trong nhận thức về đường lối đối ngoại khi khẳng định: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Đại hội XI (năm 2011) thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế khi khẳng định, Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, trong thế chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

Bước phát triển mới về nhận thức từ năm 2016 tới nay

Nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam

Thứ nhất, có bước phát triển trong nhận thức về xác định mục tiêu phát triển đất nước. Các đại hội Ðảng thời kỳ đổi mới đã xác định mục tiêu phát triển đất nước theo cách tiếp cận về trình độ phát triển công nghiệp và thu nhập bình quân đầu người. Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu đến năm 2025 nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Ðây là bước phát triển nhận thức rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước trong bối cảnh mới.

Thứ hai, trên cơ sở kế thừa tinh thần của các đại hội trước đó, Đại hội XIII của Đảng đã có nhận thức rõ hơn về đặc trưng của xã hội XHCN mà Việt Nam phấn đấu xây dựng trên một số khía cạnh như: 1- Đạt được một xã hội thịnh vượng, có thu nhập thuộc nhóm trên của các nước thu nhập trung bình cao của thế giới. Nền kinh tế thị trường có năng lực cạnh tranh cao, phát triển năng động, nhanh, bền vững, làm chủ công nghệ và hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, nền kinh tế dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo. 2- Một nhà nước pháp quyền, có cơ chế quản trị hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả, minh bạch và bảo đảm trách nhiệm giải trình; tập trung nhiều hơn quản trị phát triển và quản lý xã hội. 3- Một xã hội văn minh, hiện đại, trong đó người dân được phát huy sức sáng tạo, khơi dậy được ý chí, khát vọng phát triển, sức mạnh toàn dân tộc, có xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. 4- Một môi trường bền vững sẽ bảo vệ chất lượng không khí, đất và nguồn nước, tạo khả năng thích ứng và chống chịu nhằm giảm thiểu những rủi ro nghiêm trọng do biến đổi khí hậu; hướng tới phát triển chủ yếu nguồn năng lượng đa dạng, sạch và an toàn.

Thứ ba, nhận thức các mối quan hệ lớn cũng có nhiều bổ sung mới. Đại hội XII của Đảng đã điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành quan hệ “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa” và khái quát bổ sung mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”. Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, Đảng ta nhận diện đầy đủ hơn (bổ sung thành tố thứ ba là “xã hội”) thành mối quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục có phát triển, bổ sung mới về các mối quan hệ lớn, như điều chỉnh mối quan hệ “giữa đổi mới, ổn định và phát triển” thành “giữa ổn định, đổi mới và phát triển”; bổ sung mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”, thành “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, thành “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Đáng chú ý, Đại hội XIII của Đảng bổ sung mối quan hệ lớn giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, hợp thành chỉnh thể hệ thống 10 mối quan hệ lớn có tính quy luật của quá trình đổi mới và phát triển của Việt Nam. Đó là: 1- Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; 2- Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; 3- Giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; 4- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; 5- Giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; 6- Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; 7- Giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; 8- Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; 9- Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; 10- Giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Sự phát triển nhận thức mới trong các lĩnh vực chủ yếu

Thứ nhất, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng rõ và cụ thể hơn. Điểm mới ở đây là làm rõ hơn vai trò, định hướng phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xác định rõ hơn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và đề ra nhiều nhiệm vụ mới, nội dung mới để tiếp tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong những năm tới. Một trong những điểm mới trong quan điểm của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN giai đoạn này là: “Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng”(18).

Thứ hai, nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng gắn với xu thế phát triển chung. Nhận thức về công nghiệp hóa của Đảng luôn có sự điều chỉnh phù hợp, sáng tạo trước biến động của các nguồn lực và bối cảnh tăng trưởng. Công nghiệp hóa ở Việt Nam không chỉ là chuyển lao động chân tay sang lao động dựa trên máy móc như quan niệm cổ điển, mà công nghiệp hóa đi liền hiện đại hóa và gắn với kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện trên cơ sở gắn với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; bảo đảm cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự kết hợp giữa nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài, trong đó phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; khoa học và công nghệ được xem là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đẩy mạnh đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước với sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng; tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được triển khai theo phương thức rút ngắn.

Thứ ba, lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người đã có bổ sung mới, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam cho phát triển đất nước.

Một điểm mới trong nhận thức về vai trò của quản lý phát triển xã hội đó là lần đầu tiên tại Đại hội XIII của Đảng (năm 2021), đã khẳng định quan điểm quản lý phát triển xã hội bền vững: “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”(19). Nhận thức mới này là cơ sở quan trọng gắn kết và bảo đảm hài hòa trong các chính sách xã hội cũng như giữa chính sách xã hội với các chính sách khác.

Thứ tư, lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cũng có bước phát triển nhận thức mới. Đó là bổ sung nhiệm vụ “xây dựng hệ thống chính trị” cùng với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; và không chỉ đề cập đến xây dựng Đảng, mà còn cả chỉnh đốn Đảng. Các nội dung xây dựng Đảng được phát triển cụ thể hơn phù hợp với tình hình mới. Sau thời gian đất nước thực hiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và mở rộng quan hệ quốc tế, đã tác động đến đội ngũ đảng viên và công tác tổ chức xây dựng Đảng, tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức đã xuất hiện trong bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, đặt ra yêu cầu mới. Do vậy, Đại hội XII của Đảng chủ trương đưa nội dung xây dựng Đảng về đạo đức thành một nội dung, nhiệm vụ. Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ: “Tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức””(20). Tiếp đó, tại Đại hội XIII, Đảng đã nhấn mạnh hơn đến công tác tổ chức cán bộ và tách thành 2 nhiệm vụ: xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(21). Đi liền với bước phát triển nhận thức khi tách thành 5 nội dung trong tổng thể công tác xây dựng Đảng, Đảng ta cũng đã chỉ rõ hơn trong nội dung từng nhiệm vụ. Đây là bước phát triển sáng tạo trong nhận thức lý luận về nội dung công tác xây dựng Đảng, góp phần rất quan trọng cho hoạt động xây dựng Đảng ngày càng có hiệu quả.

Thứ năm, lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại cũng có những bổ sung mới. Đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, tại Đại hội XII, Đảng ta phát triển thêm, bổ sung nội dung: ổn định chính trị, coi là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”(22). Đây là căn cứ để xác định vị trí mối quan hệ và mức độ ưu tiên giải quyết đối với từng lĩnh vực cụ thể. 

Về xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh, Đảng tiếp tục khẳng định các quan điểm của các kỳ đại hội trước và nhấn mạnh thêm yêu cầu: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại”(23).

Về lĩnh vực đối ngoại, đường lối nhất quán của Đảng ta là độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển và làm sâu sắc thêm nội dung: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(24).

 

Ý nghĩa của sự phát triển nhận thức lý luận đối với thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Thứ nhất, sự sáng tạo thể hiện trong nhận thức rõ hơn nội dung của thời kỳ quá độ, xác định rõ nội dung kế thừa và bỏ qua đối với chủ nghĩa tư bản, cũng như làm rõ những điều kiện để Việt Nam có thể bỏ qua chủ nghĩa tư bản đi lên CNXH trong điều kiện ngày nay.

Thứ hai, trên cơ sở đánh giá tình hình thế giới và khu vực, cũng như khả năng thực tế của Việt Nam gắn với khát vọng phát triển của toàn dân tộc, Đảng đã xác định rõ mục tiêu, đặc trưng cụ thể và ngày càng hoàn thiện về xã hội XHCN mà Việt Nam hướng tới xây dựng; đồng thời chỉ rõ những phương hướng xây dựng đất nước trong giai đoạn phát triển mới.

Thứ ba, sự khái quát 10 mối quan hệ lớn là sự phát triển lý luận trên cơ sở tổng kết quá trình đổi mới của Đảng ta. Hệ thống 10 mối quan hệ lớn tạo thành một chỉnh thể tương đối đầy đủ, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, dẫn dắt hoạt động thực tiễn xây dựng CNXH.  Đây là một trong những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, đòi hỏi chúng ta nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc trong nhận thức và hành động, thực hiện thật tốt, có hiệu quả và tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện.

Thứ tư, sáng tạo trong định hình và phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN - mô hình phát triển tổng quát của nền kinh tế Việt Nam. Một mô hình kinh tế bảo đảm sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ xã hội và công bằng xã hội. Sáng tạo trong quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta

Thứ năm, sự sáng tạo trong xác định mô hình công nghiệp hóa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Công nghiệp hóa ở Việt Nam không chỉ là chuyển lao động chân tay sang lao động dựa trên máy móc như quan niệm cổ điển, mà công nghiệp hóa đi liền hiện đại hóa và gắn với phát triển nền kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện trên cơ sở phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, tận dụng tốt cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ sáu, những sáng tạo trong xác định vai trò của văn hóa, được xác định là nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng, động lực của phát triển; bên cạnh đó, tư duy lý luận và nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa kinh tế, xã hội, văn hóa và con người cũng có bước phát triển vượt bậc, thể hiện sự gắn bó hữu cơ, nhuần nhuyễn. Các yếu tố này làm tiền đề cho nhau, quy định lẫn nhau, trong đó tập trung vào sự phát triển toàn diện của con người trên tinh thần con người vừa là động lực quyết định, vừa là mục tiêu trung tâm của sự phát triển trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước.

Thứ bảy, khẳng định bản chất của Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; hoàn thiện mô hình tổ chức của Nhà nước; xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước; giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.

Thứ tám, nhận thức sâu sắc hơn bản chất, tính cách mạng, tính tiên phong của Đảng; vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới; đặc biệt là sáng tạo nhận thức về tính chất của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.

Thứ chín, phát triển nhận thức từ tư duy quân sự đến tư duy quốc phòng; từ xác định bạn, thù đến tư duy biện chứng về đối tượng, đối tác; về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; về phương châm bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Kết hợp chặt chẽ giữa bảo đảm quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội; hoàn thiện lý luận về quốc phòng, an ninh và tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi “nước chưa nguy” trên cơ sở xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Tư duy lý luận về bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển quan trọng, Chiến lược quốc phòng Việt Nam, Chiến lược quân sự Việt Nam, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng và Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia được xây dựng.

Thứ mười, nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, mà nguồn lực nội sinh, trong đó nguồn lực con người là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của đất nước.

Những sáng tạo lý luận về công cuộc đổi mới, phát triển đất nước có ý nghĩa rất quan trọng đối với thực tiễn triển khai thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Một là, CNXH và con đường đi lên CNXH có nhiều nội dung, mỗi nội dung có quy luật phát triển riêng, gắn với thực tiễn lịch sử từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Những nội dung cốt lõi thể hiện sự sáng tạo lý luận về CNXH và con đường lên CNXH ở Việt Nam của Đảng ta đã và đang từng bước góp phần bổ sung và hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, bổ sung làm giàu thêm lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH, tạo cơ sở và niềm tin vào xã hội tương lai.

Hai là, những sáng tạo lý luận về công cuộc đổi mới, phát triển đất nước khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Sự sáng tạo đó bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng phù hợp với quy luật, bảo đảm sự thắng lợi của công cuộc đổi mới.

Ba là, đây là cơ sở rất quan trọng cho hình thành đường lối đúng đắn. Những sáng tạo đột phá về lý luận trên các lĩnh vực trực tiếp là cơ sở xây dựng đường lối đổi mới của Đảng. Với những nhận thức mới, cho phép chúng ta xác định phù hợp hơn đặc trưng, phương hướng cũng như phương cách xây dựng xã hội mới.

Bốn là, những sáng tạo lý luận được vận dụng và thể chế hóa thành các luật, chính sách cụ thể sẽ trực tiếp góp phần vào thúc đẩy quá trình thực hiện kết hợp hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tốt hơn trong thực tiễn. Trước hết, những thể chế phát triển mới cho phép huy động nguồn lực, tạo cơ chế cho phát triển mạnh mẽ nền kinh tế, tạo nguồn lực cho quốc phòng. Bên cạnh đó, những đổi mới nhận thức về quốc phòng, an ninh và đối ngoại góp phần giúp chúng ta chủ động hơn và kết hợp tốt hơn trong thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, cũng như cho phép sử dụng hợp lý hơn các nguồn lực trong điều kiện cụ thể của đất nước ta.

Năm là, những sáng tạo lý luận đã minh chứng và làm sáng rõ con đường phát triển của Việt Nam, trực tiếp phản bác các luận điệu xuyên tạc về CNXH và con đường đi lên CNXH của Việt Nam, từ đó tạo niềm tin và quy tụ sức mạnh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.

PGS, TS VŨ VĂN HÀ

Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Nguồn Tạp chí Cộng sản

---------------------------

* Bài viết là sản phẩm của Đề tài KX.04.03/21-25 “Những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc qua 50 năm thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội”.

(1) "Документы Совещания представителей коммунистических и рабочих партий". Москва, ноябрь 1960 года, М., I960, стр. 7 - 5".http://historic.ru/books/item/f00/s00/z0000020/st003.shtml
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 493
(3) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 43, tr. 50
(4) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 318
(5) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr. 634
(6) Xem thêm: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 45, tr. 262
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 73
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 102
(9) Nguyễn Phú Trọng: “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”, Tạp chí Cộng sản số 1.030 (tháng 1 năm 2024), tr. 7
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 186
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XISđd, tr. 75
(12) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr. 659
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XSđd, tr. 106
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 76
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 88
(16) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX) Sđd, tr. 324
(17) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr. 662
(18) Các nghị quyết của Trung ương Đảng 2016 - 2020, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 91
(19) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 47
(20) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIISđd, tr. 202
(21) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, t. I, tr. 180
(22) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 156
(23) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 157
(24) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 161 - 162

 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Xem nhiều nhất

Liên kết website