1. Phong cách diễn đạt của Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống nhất, xuyên suốt, biểu hiện qua đặc trưng ngôn ngữ nói, viết và diễn đạt bằng hành động của Người,cụ thể là:
Thứ nhất, ngôn ngữ nói và viết thể hiện tính chân thực, dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với đối tượng và mục đích truyền tải.
Trước khi nói và viết, Hồ Chí Minh luôn làm rõ bốn yêu cầu cần tuân thủ trong cách diễn đạt gồm: nói và viết cái gì? (nội dung); nói và viết cho ai? (đối tượng nghe và đọc); nói và viết để làm gì? (mục đích); nói và viết như thế nào? (cách nói và viết).
Trước hết, Hồ Chí Minh đều xác định rõ chủ đề, bám sát nội dung trọng tâm cần truyền tải. Nội dung phải thể hiện được thông điệp gửi đến người nghe, người xem, trở thành định hướng quyết định hình thức, ngôn ngữ, văn phong bài nói, bài viết cho đúng, phù hợp với đối tượng. Hồ Chí Minh sử dụng rất nhiều hình thức như văn chính luận, thư, lời kêu gọi, thơ, truyện, bài báo... Với mỗi thể loại và mục đích, Người đều có những cách thức sử dụng ngôn ngữ phù hợp, linh hoạt, sắc bén, thể hiện trọn vẹn nội dung, ý tưởng.
Người luôn xác định đối tượng nghe và đọc, tùy vào đối tượng là công nhân, nông dân, trí thức, bạn bè quốc tế, các chính trị gia, người đứng đầu nhà nước,... để lựa chọn ngôn ngữ cho phù hợp với trình độ, kiến thức, nghề nghiệp và hoàn cảnh tiếp nhận thông tin. Với đối tượng thực dân, đế quốc, Hồ Chí Minh sử dụng ngôn ngữ đanh thép, luận cứ vững chắc hoặc lối văn châm biếm sâu cay nhằm lên án tội ác, sự lừa bịp, mị dân của thực dân. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Người sử dụng thể loại văn chính luận, ngôn ngữ ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép nhằm khẳng định nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Trên cương vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, khi nói với các tầng lớp nhân dân, hoặc viết những lá thư cho nhiều cá nhân thuộc các thành phần, lứa tuổi, Người lại dùng những lời bình dị, dễ hiểu, khơi gợi, quy tụ tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước, quyết tâm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...; khi trao đổi, tiếp xúc với lãnh đạo các nước, hoặc trả lời phỏng vấn phóng viên nước ngoài, tùy thời điểm và đối tượng cụ thể, Người lựa chọn ngôn ngữ súc tích, sắc bén, chặt chẽ, tránh gây hiểu lầm trong diễn đạt.
Người yêu cầu ngôn ngữ nói và viết phải trong sáng, mộc mạc, dễ hiểu, gần gũi và phải thể hiện được nội dung, mục đích của bài nói, bài viết; “khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng hiểu được.” (1). Với đối tượng là nhân dân lao động nói chung, phương châm nói và viết của Hồ Chí Minh là, “phải học cách nói, tiếng nói của quần chúng” (2), theo đó, mỗi câu nói, chữ viết đều phản ánh, thể hiện được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Người nhấn mạnh, “mình viết ra cốt là để giáo dục, cổ động; nếu người xem mà không nhớ được, không hiểu được, là viết không đúng, nhằm không đúng mục đích. Mà muốn cho người xem hiểu được, nhớ được, làm được, thì phải viết cho đúng trình độ của người xem, viết rõ ràng, gọn gàng, chớ dùng chữ nhiều” (3). Không những thế, ngôn ngữ phải dễ nhớ, dễ thuộc, dễ thấm vào tâm trí và dễ trở thành hành động. Trong Thư gửi đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công an khu XII, Người viết “Tư cách người công an cách mệnh”, gói trọn trong 51 từ, ngắn gọn, khúc chiết, sâu sắc, trở thành kim chỉ nam cho hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ công an. Đồng thời, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải “tránh cái lối viết “rau muống” nghĩa là lằng nhằng “trường giang đại hải”” (4). Người thường sử dụng ngôn ngữ đơn giản, trong sáng; sử dụng nhiều ví dụ, hình ảnh so sánh giản đơn, bình dị mà cụ thể và hấp dẫn. Khi diễn đạt, để bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, Người lưu ý, vì “tiếng ta còn thiếu, nên nhiều lúc phải mượn tiếng nước khác, nhất là tiếng Trung Quốc. Nhưng phải có chừng có mực” (5).
Khi bàn về những vấn đề lý luận, với mong muốn cán bộ, đảng viên và nhân dân đều có thể hiểu được, Người thường cho ví dụ dễ hiểu, dễ liên hệ, không mang tính “tầm chương trích cú”, ngôn ngữ hàn lâm. Tác phẩm Thường thức chính trị (năm 1953) đề cập đến những vấn đề lý luận như “chủ nghĩa xã hội”, “chế độ tư bản chủ nghĩa”, “chế độ phong kiến”... nhưng Người đã diễn đạt bằng ngôn ngữ rất mộc mạc, giản đơn.
Người yêu cầu trong diễn đạt phải phản ánh tính chân thực, khách quan của các sự kiện, thông tin. Khi viết cần bảo đảm tính chân thực, biết cái gì thì viết cái đó “có đúng nói đúng, có sai nói sai” (6). Chính tính chân thực trong thông tin, nội dung truyền tải đã làm cho những tác phẩm của Người có sức thuyết phục mạnh mẽ. Người phê bình những cán bộ không dám phê bình và tự phê bình, không dám nhìn vào sự thật, thậm chí có thói “ba hoa”. Khi nói, viết về cái hay, cái tốt thì phải có chừng mực, không phóng đại, “thành công ít, thì suýt ra nhiều. Còn khuyến điểm thì giấu đi, không nói đến” (7).
Để đảm bảo chất lượng bài nói, bài viết, Người căn dặn, phải có tính cẩn thận, phải đọc đi đọc lại, sửa đi sửa lại và phải chú ý giữ bí mật. Người thường xuyên nhắc nhở về công tác giữ bí mật và nêu rõ tình báo địch hoạt động được vì “ta sơ hở, không biết giữ bí mật” (8). Một số cán bộ, đảng viên và nhân dân do nói năng, viết lách không cẩn thận, sơ suất để lộ bí mật.
Như vậy, phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh thể hiện đặc trưng riêng, trong khi nói và viết phải đạt yêu cầu dễ hiểu, dễ nhớ, ngắn gọn, súc tích, đảm bảo tính chân thực, văn phong đa dạng, thể hiện nội dung và phù hợp với đối tượng cụ thể.
Thứ hai, phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh thể hiện sự thống nhất giữa nói và làm, viết và làm. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), Hồ Chí Minh đã đề cập tư cách của người cách mạng là nói đi đôi với làm. Nói và làm không chỉ là nguyên tắc đạo đức, phương châm hoạt động mà còn là biểu hiện sinh động cụ thể giữa ngôn ngữ nói, viết với hành động. Trong bài Dân vận (năm 1949), Người căn dặn, để làm tốt công tác vận động quần chúng, cán bộ phải thực hiện “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Đặt “óc nghĩ” lên hàng đầu, Người muốn khẳng định, để công tác có hiệu quả, người cán bộ phải dày công tìm tòi suy nghĩ để phân tích chính xác tình hình nhân dân, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn sinh động để vận động nhân dân. “Mắt trông, tai nghe, chân đi” là yêu cầu sát cơ sở, sát thực tế, đến với nhân dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân mà giúp dân giải quyết các công việc cụ thể, đề xuất hoặc điều chỉnh chính sách cho phù hợp, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách cho tốt.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, muốn viết được, nói được, người cán bộ, đảng viên phải trực tiếp suy nghĩ và hành động, tự đi sâu tìm hiểu thực tiễn quần chúng nhân dân. Cán bộ, đảng viên có thực tiễn, có điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng mới có cơ sở để viết ra khẩu hiệu, chính sách phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đặc biệt, Người mong muốn phải thực hiện “nói đi đôi với làm”, phải nêu gương trong thực hiện. Bản thân Người đã trở thành một tấm gương sáng, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời nói đi đôi với việc làm, lý luận gắn với thực tiễn. Đối lập với tác phong “miệng nói, tay làm” là lối “chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” tức là nói mà không làm, và nếu có làm thì chỉ làm theo lối quan liêu “bàn giấy”, hoặc nói một đằng, làm một nẻo, miệng thì vận động người khác nhưng mình thì không làm hoặc làm ngược lại. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước, phải thật thà “nhúng” tay vào việc, phải cùng lao động, cùng chiến đấu, hòa mình vào cuộc sống hằng ngày của quần chúng để thực hiện mục đích.
Phong cách diễn đạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành mẫu mực cho nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập và là một trong những nhân tố tạo nên sức lôi cuốn, sức thuyết phục đối với nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế.
2. Học tập phong cách diễn đạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành kỹ năng lãnh đạo, chỉ huy của cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân cụ thể là:
Một là, xây dựng phong cách lãnh đạo, chỉ huy công an nhân dân được đề cập trên hai phương diện là lãnh đạo bản thân và lãnh đạo nhân dân trong nội hàm quan điểm “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Thứ nhất, để xây dựng vai trò người “lãnh đạo” của nhân dân, người lãnh đạo, chỉ huy trước hết phải thực hiện công việc lãnh đạo bản thân. Lãnh đạo bản thân là điều kiện tiền đề, quyết định đến phong cách của người cán bộ công an. Phong cách diễn đạt trong lãnh đạo bản thân được thể hiện trong cách sử dụng ngôn ngữ nói và viết, hướng đến trau dồi các kỹ năng như: giao tiếp, thuyết trình, viết..., Nếu không có kỹ năng diễn đạt thì công tác vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật sẽ hạn chế. Để diễn đạt có hiệu quả, thuyết phục được người khác, phải hiểu chắc, hiểu rõ, hiểu sâu nội dung vấn đề để diễn đạt cho đúng, cho trúng nội dung, truyền tải được thông tin quan trọng, gửi thông điệp đến người nghe, người xem. Muốn vậy, phải tiến hành công tác điều tra, nghiên cứu và bám sát thực tiễn, “bám sát cơ sở”, nắm chắc tình hình. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, muốn lấy tài liệu để viết, cán bộ phải nghe, hỏi, thấy, xem, ghi. Theo đó, nghe là lắng tai nghe các cán bộ, chiến sĩ và nhân dân; hỏi là hỏi những người đi xa về, hỏi nhân dân, bộ đội; thấy là mình phải đi đến, xem xét; xem là xem báo chí, xem sách vở; ghi là ghi những nội dung đã nghe, thấy, hỏi, đọc được... từ đó giúp người lãnh đạo, chỉ huy thực hiện hiệu quả công việc, đồng thời tham mưu cho lãnh đạo cấp trên những ý kiến sâu sát, mới mẻ, chất lượng, thiết thực. Trong cách diễn đạt, trước khi được lãnh đạo cấp trên sửa chữa, tự mình cần trau chuốt, “đọc đi đọc lại”, “viết đi viết lại” cho nhuần nhuyễn, tự kiểm tra, đánh giá thường xuyên để rút kinh nghiệm kịp thời. Kỹ năng nói và viết tốt sẽ giúp cho người lãnh đạo, chỉ huy truyền đạt được chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đông đảo nhân dân; thuyết phục được lãnh đạo, cấp dưới và đồng nghiệp hiểu được những ý tưởng, kế hoạch do mình đề xuất.
Thứ hai, để xây dựng vai trò người “lãnh đạo” của nhân dân trong tổ chức vận động, thuyết phục nhân dân tham gia vào sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, người lãnh đạo, chỉ huy phải có cách thức giáo dục, huấn luyện cụ thể, thiết thực, phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối tượng. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, phải toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, trong quan hệ tiếp xúc, giao tiếp hằng ngày với nhân dân phải “kính trọng, lễ phép”, chân tình và phải triệt để sửa đổi tác phong mệnh lệnh, quan liêu, hống hách; phải tạo ra mối quan hệ thật tốt giữa công an và nhân dân, phải nâng cao kỷ luật, tính tổ chức, chống ba phải, nể nang. Trong giao tiếp với nhân dân phải thể hiện rõ phong cách người công an, không phải là lối ngoại giao qua loa, bề ngoài. Đồng thời, chú ý thực hiện nguyên tắc nói đi đôi với làm, chú trọng việc nêu gương, phải phát huy vai trò tiên phong của người Công an nhân dân.
Người căn dặn, công an cần có thái độ cầu thị, khuyến khích, “hoan nghênh nhân dân phê bình công an”, để đi đến “hiểu công an, yêu công an và giúp đỡ công an”. Khi nhân dân đưa ra ý kiến, cần nghiên cứu cho kỹ lưỡng, tìm ra mâu thuẫn trong các ý kiến, chọn lấy cái đúng, đưa ra cho dân chúng bàn bạc, lựa chọn, qua đó dần nâng cao tinh thần giác ngộ của quần chúng, nhiệt tình tham gia đóng góp ý kiến để công an ta tiến bộ.
Đặc biệt, đối với cán bộ làm công tác nghiệp vụ, trực tiếp tiếp xúc với đối tượng phạm tội, kỹ năng giao tiếp, cảm hóa đối tượng là kỹ năng rất quan trọng. Cán bộ, chiến sĩ nhất thiết phải rèn luyện kỹ năng diễn đạt trong điều tra, xét hỏi, thuyết phục các đối tượng một cách phù hợp. Chú trọng nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra kỹ lưỡng về hoàn cảnh, tâm lý, đặc điểm đối tượng cần tiếp xúc để xác định nội dung, mục đích, ngôn ngữ, biện pháp phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do đó, việc nghiên cứu, quán triệt những lời dạy và kinh nghiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong diễn đạt càng có ý nghĩa đặc biệt.
Hai là, đối với cán bộ là lãnh đạo, chỉ huy trong lực lượng công an, tìm hiểu phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành kỹ năng giao tiếp, thuyết trình, thuyết phục,... và trở thành tấm gương cho cán bộ cấp dưới và nhân dân noi theo.
Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy thường xuyên tiếp xúc với cán bộ, chiến sĩ cấp dưới và nhân dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, điều kiện và khả năng của họ để phục vụ công tác. Trong điều hành, chỉ huy đơn vị, rèn luyện phong cách diễn đạt góp phần thể hiện chính xác mục đích, nhiệm vụ công tác, phân công nhiệm vụ rõ ràng, hướng dẫn, chỉ dạy cấp dưới cách thức, phương pháp phù hợp, giúp họ hiểu rõ trách nhiệm và đạt kết quả cao. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng cũng đã chỉ ra tình trạng “nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu”. Thực hiện “nói đi đôi với làm” là biện pháp quan trọng đẩy lùi một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, các cấp lãnh đạo đều phải hết sức chú ý đề phòng và tẩy trừ sạch các căn bệnh lý luận suông, phải hết sức tránh các biểu hiện của chủ nghĩa quan liêu, bàn giấy, hẹp hòi, thói ba hoa, sáo rỗng, tự kiêu tự đại, tác phong, lối sống sinh hoạt ích kỷ, chỉ biết đến mình, không thèm học hỏi quần chúng, không nghe lời nói phải, coi khinh ý kiến của người khác, thậm chí trù úm những người nói thẳng, nói thật...
Hiện nay, cán bộ, chiến sĩ lực lượng Công an nhân dân đã và đang triển khai mạnh mẽ, sâu rộng các cuộc vận động lớn như: Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ; xây dựng phong cách người công an bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ... Do vậy, học tập phong cách diễn đạt của Bác Hồ là một biểu hiện sinh động trong quá trình thực hiện các cuộc vận động trên, góp phần quan trọng trong xây dựng hình ảnh tốt đẹp của người Công an nhân dân trong lòng nhân dân.
Nguyễn Thị Thu Trang – Học viện Quốc tế
Nguồn Tạp chí lý luận chính trị CAND
(1),( 5), (7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 346, 341, 341.
(2), (3), (4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 8, Sđd, tr. 208, 207, 207.
(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Sđd, tr. 144.
(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 280.