Đổi mới cách tiếp cận và phát triển tư duy sáng tạo trong nghiên cứu lý luận chính trị

Trong bài viết quan trong[1] nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 -19/5/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu những vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng chí nêu rõ : “Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học”; “Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam”; “Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”; “Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội”.

Những ý kiến của Tổng Bí thư cho thấy phải có cách tiếp cận đúng, thúc đẩy phát triển tư duy sáng tạo trong nghiên cứu lý luận cũng như trong lãnh đạo - chỉ đạo thực tiễn phát triển đất nước.

Về vai trò của đột phá đổi mới tư duy lý luận, trong phát biểu của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại lễ công bố quyết định thành lập Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2011-2015 cũng đã nêu: “Đột phá về lý luận sẽ tạo tiền đề cho sự phát triển thực tiễn”. Tại Hội nghị tổng kết công tác nhiệm kỳ 2016-2021 của Hội đồng Lý luận Trung ương (17-4-2021), Đồng chí chỉ rõ : “Bối cảnh quốc tế và yêu cầu phát triển bứt phá của đất nước trong thời kỳ mới đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục đổi mới tư duy phát triển trên cơ sở phát huy tiềm năng, vị thế, điều kiện thực tiễn của chúng ta, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, thời đại”. Do vậy, "không thể để kéo dài tình trạng còn lạc hậu của lý luận so với sự vận động và đòi hỏi của thực tiễn”, “Lý luận phải vươn lên dẫn đường và đồng hành với thực tiễn", "phải có tầm nhìn vượt trước", “phải tạo được những bước đột phá về lý luận phát triển, khai thông những điểm nghẽn về tư duy, nhận thức, quan điểm phục vụ cho việc hoàn thiện thể chế, xây dựng đường lối, chủ trương, định hướng, chính sách phát triển; khơi dậy khát vọng và phát huy ý chí, quyết tâm vươn lên của cả dân tộc; phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Chỉ Đảng nào có lý luận tiên phong hướng dẫn thì Đảng đó mới làm tròn được vai trò là người chiến sĩ tiên phong". Trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng, công tác lý luận được nhấn mạnh và chỉ rõ phải "Nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước"[2]. Điều này đặt ra yêu cầu rất cao về tiếp tục đổi mới cách tiếp cận và phát triển tư duy sáng tạo trong công tác nghiên cứu lý luận chính trị trong giai đoạn mới.

 

I. Khái quát về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác lý luận, nghiên cứu lý luận

1. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng đã rất quan tâm đến công tác lý luận chính trị nói chung và công tác nghiên cứu lý luận chính trị nói riêng. Sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác lý luận chính trị (gọi tắt là lý luận) của Đảng có thể khái quát gồm những nhiệm vụ chủ yếu sau :

- Xác định vị trí, vai trò của lý luận đối với hoạt động của Đảng, công tác lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng trong mỗi giai đoạn.

- Xác định (định hướng) mục tiêu, các nội dung lý luận cần được quan tâm nghiên cứu, phát triển trong mỗi giai đoạn.

- Xây dựng hệ thống các tổ chức (đơn vị) nghiên cứu lý luận của Đảng và của Nhà nước với chức năng nhiệm vụ cụ thể.

- Ban hành cơ chế, quy chế hoạt động nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn.

- Ban hành cơ chế, quy chế phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu lý luận với các cơ quan của Đảng, Nhà nước trong việc nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.

- Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đội ngũ chuyên gia về công tác lý luận đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn.

- Phổ biến, tuyên truyền các vấn đề lý luận với những nội dung và hình thức phù hợp đối với các đối tượng trong xã hội. Triển khai đấu tranh về lý luận đối với những nhận thức, quan điểm sai trái, thù địch.

Như vậy, công tác nghiên cứu lý luận là một trong những nhiệm vụ (quan trọng) của công tác lý luận của Đảng. Bản thân công tác nghiên cứu lý luận cũng bao gồm nhiều khâu liên quan mật thiết với nhau: xác định mục tiêu, định hướng, nội dung nghiên cứu; xây dựng tổ chức - bộ máy nghiên cứu, phục vụ nghiên cứu; xây dựng cơ chế, chính sách nghiên cứu; xây dựng đội ngũ nhân lực nghiên cứu; xây dựng chương trình, kế hoạch nghiên cứu; xây dựng cơ chế chỉ đạo, quản lý công tác nghiên cứu gắn với tổng kết thực tiễn; xây dựng cơ chế đánh giá, sử dụng, ứng dụng kết quả nghiên cứu, nhất là vào xây dựng đường lối chủ trương, định hướng chính sách và tổ chức thực thực hiện trong thực tiễn của Đảng và Nhà nước.

2. Có thể nói, ngay từ khi chưa trở thành Đảng cầm quyền, Đảng ta, trước hết là Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến lý luận về mục tiêu, con đường và phương pháp cách mạng Việt Nam. Để chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng, Hồ Chí Minh đã quan tâm trước hết đến bồi dưỡng lý luận cách mạng cho thế hệ trẻ của Việt Nam.  Người đã thành lập “Thanh niên cách mạng đồng chí Hội”, mở các lớp bồi dưỡng lý luận cách mạng, khi đó Người đã viết cuốn “Đường cách mệnh” (1927) để giới thiệu tính chất và kinh nghiệm các cuộc cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789), Cách mạng Tháng Mười Nga (1917)…Từ đó, Người chỉ rõ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam khi đó là cách mạng “giải phóng dân tộc” và “cần phải có sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng". Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh thấy rõ sự cần thiết của lý luận đối với Đảng. Người chỉ rõ cách mạng muốn thành công tất yếu phải có Đảng lãnh đạo. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm “cốt”. Đảng mà không có chủ nghĩa làm cốt giống như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam[3]; rằng “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”[4].

Nhưng tư duy lý luận của Người về cách mạng của Việt Nam được hình thành không phải bằng con đường tư biện, lý luận giáo điều, mà trên cơ sở nghiên cứu sâu sắc thực tiễn các cuộc cách mạng trên thế giới và điều kiện cụ thể của Việt Nam khi đó. Tư duy lý luận sáng tạo, đúng đắn của người tiếp tục được thể hiện nhất quán trong “Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt” về mục tiêu, đường lối, phương pháp, lực lượng cách mạng Việt nam, do Người soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2 năm 1930, trong đó chủ trương phải làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Và cần phải thực hiện đoàn kết toàn dân tộc - các lực lượng yêu nước để thực hiện mục tiêu này.

Có thể nói, trong giai đoạn 1930 - 1940 (cho đến trước đầu năm 1941 khi Hồ Chí Minh về nước, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước) trong Đảng diễn ra cuộc đấu tranh khá gay gắt về mục tiêu, đường lối và phương pháp của cách mạng Việt Nam, mà ẩn sâu bên trong là sự khác nhau về nhận thức và vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam và bối cảnh quốc tế khi đó. Thực tế đã diễn ra cả những sai lầm tả khuynh và hữu khuynh. Để góp phần đấu tranh, uốn nắn những sai lầm về nhận thức lý luận và hành động, năm 1939, đồng chí Tổng Bí thư của Đảng khi đó là Nguyễn Văn Cừ đã viết cuốn “Tự chỉ trích” với bút danh là Trí Cường[5]. Bài học lớn được rút ra là: để nâng cao và tạo được sự thống nhất cao trong Đảng về tư tưởng và nhận thức lý luận, phải có sự nghiên cứu sâu sắc về lý luận và thực tiễn; đồng thời phải triển khai cuộc đấu tranh về lý luận không khoan nhượng, công khai, dân chủ gắn với thực tiễn hoạt động cách mạng.

Sau khi Hồ Chí Minh về nước vào đầu năm 1941, với nhận thức lý luận - thực tiễn sâu sắc và với nhãn quan chính trị nhạy bén, sáng suốt, Người đã cùng Trung ương Đảng chèo lái đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều thử thách để đến bền bờ vinh quang là giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước, lập nên nền dân chủ cộng hòa. Có thể nói, cách mạng Tháng Tám 1945 thành công là thể hiện rực rỡ về sự sáng tạo trong nhận thức lý luận được hóa thân vào thực tiễn về mục tiêu cách mạng, về lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích giai cấp, về tình thế cách mạng, về thời cơ, về động lực - lực lượng cách mạng …trong điều kiện của Việt Nam và bối cảnh quốc tế khi đó.

Từ tấm gương về gắn nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh, cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của lý luận với thực tiễn lãnh đạo cách mạng của một Đảng. Người nói: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động… Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng mới làm nổi cách mệnh tiên phong”[6]. Nhưng Người lại khái quát rất sâu sắc rằng :

“Thực hành sinh ra hiểu biết

Hiểu biết tiến lên lý luận

        Lý luận lãnh đạo thực hành”[7].

Điều này cho thấy, trong quan điểm của Hồ Chí Minh, mọi lý luận xa rời thực tiễn, không bám vào mảnh đất thực tiễn, không được thực tiễn “nuôi dưỡng”, mà lại rơi vào duy lý, lý thuyết suông, bắt thực tiễn phải đi theo “khuôn mẫu”tư duy lý luận giáo điều, thì sẽ không có sức sống lâu bền, không thể “lãnh đạo thực hành” thành công.

 

3. Từ giai đoạn 1945 - 1954 đất nước ta phải trải qua 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, sang giai đoạn 1954 - 1975 vừa xây dựng XHCN ở Miền Bắc, vừa đấu trang giải phóng Miền Nam, vừa còn phải chống lại cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt trong nhiều năm của đế quốc Mỹ ở Miền Bắc. Tư duy lý luận của Đảng phải tập trung cao cho sự nghiệp đẩu tranh giải phóng và thống nhất đất nước. Tư duy về xây dựng CNXH ở Miền Bắc một mặt bị chi phối mạnh của chiến tranh, mặt khác về cơ bản vẫn nằm trong “khung” tư duy lý luận chung về CNXH mang nhiều yếu tố chủ quan, duy ý trí của phe XHCN khi đó; mặc dù Đảng ta đã có những vận dụng nhất định cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam khi đó.

 

4. Giai đoạn 1975 - 1985 sau giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi vào xây dựng CNXH. Cùng với những hậu quả nặng nề của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lâu dài và hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới; nhưng chủ yếu do tư duy, nhận thức và cách tiếp cận về mô hình chủ nghĩa xã hội “kế hoạch hóa hành chính tập trung quan liêu bao cấp”, phi thị trường, với lực lượng sở hữu nhà nước và tập thể phải đóng vai trò chi phối tuyệt đối trong phát triển kinh tế, cải tạo công - thương nghiệp, nông nghiệp…đã đưa đến sự suy giảm nghiêm trọng động lực phát triển; đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng vào cuối những năm 70 và những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Đồng thời, từ cuối những năm 1980, các nước trong phe XHCN, nhất là Liên Xô cũng bắt đầu rơi vào suy thoái nghiêm trọng, rồi dẫn đến đổ vỡ vào đầu những năm 1990.

Bối cảnh đó là yêu cầu “sống còn” đặt ra đối với Đảng ta phải đổi mới toàn diện đất nước với Nghị quyết lịch sử của Đại hội VI (1986); trong đó chỉ rõ phải đổi mới nhận thức về mô hình CNXH, phải đổi mới tư duy phát triển, trước hết là tư duy kinh tế. Với quan điểm dũng cảm - cách mạng - khoa học - thực tiễn, Đại hội VI khẳng định phải “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” để đổi mới tư duy, đổi mới đường lối, cơ chế, chính sách phát triển đất nước. Đó cũng là tư tưởng chỉ đạo quan trọng của Đảng đối với cách tiếp cận về công tác lý luận nói chung và công tác nghiên cứu lý luận nói riêng trong công cuộc đổi mới, tạo nên những đột phá về nhận thức lý luận của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Tư tưởng chỉ đạo đó vẫn còn nguyên giá trị đối với đổi mới tư duy lý luận phát triển trong giai đoạn mới hiện nay.

 

5. Công tác nghiên cứu lý luận chính trị có nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước và xã hội tham gia ở những mức độ và giác độ khác nhau. Tuy nhiên, Đảng ta đã sớm quan tâm đến thành lập cơ quan nghiên cứu lý luận chính trị chuyên trách của Đảng. Ngay từ năm 1965, Đảng ta đã thấy rằng, “Từ khi hòa bình được lập lại Đảng ta đã có chú ý đến công tác lý luận, nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót. Vì không có một tổ chức chuyên trách giúp Trung ương nghiên cứu lý luận, cho nên nhiều vấn đề về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới không được nghiên cứu sâu để giải quyết hoặc giải đáp kịp thời. Một số cơ quan làm công tác lý luận vì thiếu sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Chính trị, nên chưa phục vụ được tốt cho sự lãnh đạo của Trung ương Đảng”. Trên thực tế, trong cán bộ, đảng viên có tình trạng số cán bộ lãnh đạo ở các ngành, các cấp nắm được tình hình thực tế, có nhiều kinh nghiệm công tác nhưng lại coi nhẹ công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; mặt khác, số cán bộ làm công tác lý luận thường thiên về nghiên cứu sách vở, ít liên hệ và gắn với tổng kết thực tiễn.

Từ tình hình đó, đề đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận của Đảng, Bộ Chính trị quyết định thành lập Ban nghiên cứu lý luận của Trung ương (Nghị quyết số 131-NQ/TW ngày 28-12-1965). Ban nghiên cứu lý luận Trung ương gồm các đồng chí: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Tố Hữu; đồng chí Trường Chinh làm Trưởng ban. Nhiệm vụ của Ban nghiên cứu lý luận Trung ương là : 1) - Giúp Trung ương tổ chức và hướng dẫn hướng dẫn việc tổng kết những kinh nghiệm lớn của cách mạng nước ta; 2) Tổ chức nghiên cứu những vấn đề lý luận nhằm phục vụ cho Trung ương trong việc hoạch định đường lối, chính sách của cách mạng Việt Nam (ở cả hai Miền); 3) Tổ chức nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đề phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Bộ Chính trị cũng xác định rõ phương châm công tác nghiên cứu lý luận là:

  - Lý luận liên hệ với thực tiễn

  - Độc lập, tự chủ trong công tác nghiên cứu, đồng thời tiếp thu có phê phán, có chọn lọc những thành tựu nghiên cứu của các đảng anh em.

  - Nghiên cứu có kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm.

  - Kết hợp nghiên cứu những vấn đề trước mắt với nghiên cứu những vấn đề lâu dài.

 

Có thể nói, việc quyết định thành lập Ban Nghiên cứu lý luận trung ương, với sự lãnh đạo và tham gia trực tiếp của những đồng chí đứng đầu Đảng và Nhà nước, thể hiện Đảng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác nghiên cứu lý luận đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách lãnh đạo cách mạng nước ta của Đảng .

 

Sau giải phóng Miền Nam (1975), thống nhất đất nước, nhằm đáp ứng với yêu cầu của công tác nghiên cứu lý luận của Đảng trong giai đoạn cả nước đi vào xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời bình, Bộ chính trị đã ra nghị quyết về công tác tổ chức (Nghị quyết số 32-NQ/TW, ngày 20-11-1980), trong đó nêu rõ việc thành lập Viện Mác - Lênin bao gồm Ban Nghiên cứu lý luận Trung ương, ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, bộ phận xuất bản sách kinh điển của chủ nghĩa Mác - lênin và các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của các đồng chí lãnh đạo Đảng ta ( Năm 1992, Viện Mác - Lênin được đổi tên thành “Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”). Viện là “Trung tâm nghiên cứu lý luận của Đảng trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương”. Trong các nhiêm vụ của Viện, thì các nhiệm vụ nghiên cứu lý luận được đặt lên hàng đầu, trong đó có nhiệm vụ nghiên cứu về sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh, của các đồng chí lãnh đạo khác của Đảng.

Có thể nói, việc Đảng ta quyết định thành lập Viện Mác - Lênin và sau đó phát triển và đổi tên thành “Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” với chức năng là một cơ quan nghiên cứu lý luận chuyên trách của Đảng, trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương, là một quyết định sáng suốt và đúng đắn. Trong 15 năm xây dựng, hoạt động và phát triển (đến năm 1996), nhất là trong 10 năm đầu của công cuộc đổi mới, với sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng và Nhà nước giao nghiên cứu nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước; đã có những đóng góp xứng đáng vào quá trình tổng kết thực tiễn, đổi mới tư duy lý luận phục vụ cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới.

 

6. Năm 1996, Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được hợp nhất với Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị ra Quyết định số 06-QĐ/TW thành lập Hội đồng lý luận Trung ương - cơ quan có chức năng “tư vấn cho Bộ chính trị về công tác lý luận; giúp Thường vụ Bộ Chính trị chỉ đạo phương hướng, nội dung các chương trình nghiên cứu khoa học xã hội thời kỳ 1996-2000 nhằm xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam”.

Trải qua 5 nhiệm kỳ, các chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng lý luận Trung ương từng bước được Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định bổ sung, đổi mới thêm. Đến nhiệm kỳ 2016-2020, Bộ Chính trị xác định Hội đồng lý luận Trung ương có chức năng, nhiệm vụ như sau[8]:

- Hội đồng Lý luận Trung ương là cơ quan tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các vấn đề lý luận chính trị, làm cơ sở cho việc hoạch định, hoàn thiện, phát triển đường lối, chính sách của Đảng, về những chương trình, đề tài khoa học cấp nhà nước về lý luận chính trị, phục vụ trực tiếp công tác lãnh đạo của Đảng. 

- Hội đồng có nhiệm vụ trực tiếp nghiên cứu một số đề tài do Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao hoặc do Hội đồng đề xuất được Bộ Chính trị, Ban Bí thư chấp thuận; đồng thời kế thừa, chắt lọc kết quả của các chương trình, đề tài nghiên cứu khác, để thực hiện tốt chức năng tư vấn của Hội đồng và thực hiện một số nhiệm vụ khác do Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao.

- Thẩm định những vấn đề mà các ngành, các cấp trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư có liên quan  đến  chức  năng, nhiệm  vụ của Hội đồng Lý luận Trung ương.

- Nghiên cứu, đề xuất những luận cứ về lý luận đấu tranh và trực tiếp tham gia đấu tranh bác bỏ những quan điểm sai trái với đường lối, quan điểm của Đảng.

- Giữ mối quan hệ với các cơ quan nghiên cứu lý luận của các đảng cộng sản và đảng cầm quyền trên thế giới”.

Như vậy, về chức năng, Bộ Chính trị vẫn xác định Hội đồng Lý luận Trung ương là cơ quan tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các vấn đề lý luận chính trị. Song đã giao cho Hội đồng có nhiệm vụ trực tiếp nghiên cứu một số đề tài do Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao hoặc do Hội đồng đề xuất được Bộ Chính trị, Ban Bí thư chấp thuận. Trên thực tế, để làm tốt công tác tư vấn, Hội đồng lý luận Trung ương phải là một cơ quan nghiên cứu lý luận chuyên sâu, có chất lượng cao. Có thể chính vì vậy, mà từ nhiệm kỳ 2006-2010, Hội đồng Lý luận Trung ương được Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao cho chủ trì Chương trình “Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị nhiệm kỳ 2006-2010”. Đến nhiệm kỳ 2016-2020, Hội đồng Lý luận Trung ương được giao là Bộ chủ trì Chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp Nhà nước “Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2016-2020”. Điều đó cho thấy công tác nghiên cứu lý luận chính trị ngày càng trở thành một nhiệm vụ trọng tâm của Hội đồng của lý luận Trung ương. Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu được sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Chính trị, Ban Bí thư (thông qua cho ý kiến về mục tiêu, nhiệm vụ, các vấn đề nghiên cứu, sản phẩm của Chương trình, đề tài nghiên cứu).

 

Trong những năm đổi mới, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác lý luận nói chung và công tác nghiên cứu lý luận nói riêng còn được thể hiện ở trong các văn kiện Đại hội Đảng các khóa đều có đánh giá về công tác lý luận, khẳng định rõ những mặt được, những bước tiến, đồng thời chỉ rõ những hạn chế, bất cập, yếu kém của công tác lý luận. Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương cũng đã ban hành một số nghị quyết chuyên đề công tác lý luận[9], trong đó đã đánh giá sâu sắc, toàn diện công tác lý luận, xác định phương hướng, nhiệm vụ của công tác lý luận nói chung, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nói riêng trong mỗi giai đoạn. 

Điểm chung nhất trong các nghị quyết đó đánh giá về công tác lý luận là: Mặc dù công tác lý luận, nghiên cứu lý luận đã có những bước tiến, đạt được những kết quả quan trọng; nhưng nhìn chung, công tác lý luận, nghiên cứu lý luận “còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Nhìn chung, lý luận còn lạc hậu, tính dự báo thấp, kết quả nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn…Kết quả thực hiện nhiệm vụ cung cấp luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, quan điểm của Đảng còn hạn chế, nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra chưa được làm rõ…Thiếu gắn bó mật thiết giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn…”. Những hạn chế, bất cập này được nêu lên trong các văn kiện của nhiều Đại hội Đảng, trong đó có văn kiện của Đại hội XIII; nhưng việc khắc phục còn chậm và hạn chế.

“Những hạn chế, khuyết điểm nói trên có nguyên nhân khách quan là quá trình đổi mới, phát triển đất nước nảy sinh nhiều vấn đề mới, phức tạp, chưa có tiền lệ. Về chủ quan, một số cấp ủy, chính quyền chưa thực sự coi trọng công tác lý luận... Phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị còn có mặt hạn chế, bất cập. Việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận còn hạn chế”. “Đội ngũ cán bộ lý luận đông, nhưng không mạnh, còn ít chuyên gia lý luận đầu đàn trên các lĩnh vực. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức và quản lý các hoạt động lý luận còn nhiều bất cập”[10]. Trong những nguyên nhân, có nguyên nhân nhận thức về vị trí, vai trò của lý luận, phương thức và cách tiếp cận về lãnh đạo, chỉ đạo công nghiên cứu lý luận, về mô hình tổ chức nghiên cứu lý luận chính trị có những mặt chưa thật phù hợp và hiệu quả.

Có thể chính vì vậy mà tại Hội nghị tổng kết công tác nhiệm kỳ 2016 - 2021 của Hội đồng Lý luận Trung ương (ngày 17/4/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt rõ yêu cầu : “Hội đồng Lý luận Trung ương là cơ quan trực thuộc Bộ Chính trị,.. cơ quan tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận của Đảng, làm tham mưu, tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các vấn đề lý luận chính trị”, phải cùng với các cơ quan nghiên cứu lý luận khác, trên cơ sở “nghiên cứu những vấn đề mới về lý luận của thế giới; các vấn đề mới do thực tiễn đặt ra; kinh nghiệm của các nước tiên tiến; của cuộc cách mạng về khoa học công nghệ,... Từng bước bổ sung, hoàn thiện lý luận, xây dựng một hệ thống (nền) lý luận của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới…”. Đồng chí chỉ rõ : “Có thể nói, một chân trời sáng tạo rộng lớn, một thời cơ phát triển rất tốt đẹp đang mở ra trước Hội đồng Lý luận Trung ương và giới lý luận nước nhà”.

 

II. Cách tiếp cận về nghiên cứu lý luận chính trị và những vấn đề đặt ra

 

1. Đặc điểm của công tác nghiên cứu lý luận chính trị

Công tác nghiên cứu lý luận chính trị gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng, quá trình xây dựng đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn. Do đó, công tác nghiên cứu lý luận chính trị có những đặc điểm sau :

- Nghiên cứu lý luận chính trị gắn liền khoa học với chính trị, mục đích chính trị. Không phải khi nào những đề xuất và vận dụng cũng tuân theo “lý luận thuần túy”.

- Nghiên cứu lý luận chính trị thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa khách quan và chủ quan (trước hết là mục tiêu nghiên cứu).

- Nghiên cứu lý luận chính trị phải gắn liền lý luận với thực tiễn, xuất phát từ nhu cầu và điều kiện thực tiễn; đáp ứng và phục vụ yêu cầu phát triển đất nước, bảo đảm hài hòa giữa trước mắt với lâu dài.

- Nghiên cứu lý luận chính trị gắn liền mục đích trước mắt với mục đích lâu dài, và phải có những bước trung gian quá độ.

- Nghiên cứu lý luận chính trị là quá trình đấu tranh, tranh luận lý luận - thực tiễn không ngừng trong quá trình phát triển.

Ở đây có một vấn đề rất hệ trọng đặt ra đối với công tác nghiên cứu lý luận chính trị, đó là nhận thức và tiếp cận như thế nào về lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội (?). Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng đã nêu có ba cách tiếp cận về chủ nghĩa xã hội: “chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ”. Nếu tiếp cận nghiên cứu lý luận chính trị chủ yếu theo cách tiếp cận chủ nghĩa xã hội là một học thuyết đã được định hình với những chỉ dẫn đầy đủ, có sẵn và gắn với đó là một chế độ chính trị - kinh tế - xã hội tương ứng mang tính lý tưởng cao; không tiếp cận đầy đủ, sâu sắc “chủ nghĩa xã hội là một phong trào hiện thực” (như Mác - Engghen đã nhiều lần nhấn mạnh); thì tất yếu sẽ rơi vào chủ quan, duy ý chí, siêu hình, phi thực tế, và sớm hay muộn sẽ phải trả giá. Đây thường là “căn bệnh cố hữu” của cách tiếp cận nghiên cứu lý luận thoát ly thực tiễn, “bắt” thực tiễn phải “khuôn theo” những lý luận giáo điều. Điều này trái với những chỉ dẫn của Mác, Engghen và Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời cũng trái với quan điểm của Đảng ta về quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước phong kiến nửa thuộc địa, nông nghiệp còn lạc hậu, mà đến nay Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng lại một lần nữa tiếp tục nhấn mạnh: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội…, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới”. Điều này đặt ra phải khắc phục cách tiếp cận và tư duy siêu hình, đối lập máy móc, giáo điều “các giá trị chủ nghĩa xã hội” với “các giá trị phi chủ nghĩa xã hội” cả trong kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội (ví dụ hiện nay vẫn có những người quan niệm trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ có thành phần kinh tế nhà nước và tập thể mới đóng vai trò phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; còn các thành phần và chủ thể kinh tế khác không góp phần gì cho sự phát triển theo định hướng này. Điều đó cho thấy đã không có sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc quan điểm của Đảng là: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu; các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN của Việt Nam).

 Điều này càng khẳng định, nghiên cứu luận phải gắn chặt với nền tảng thực tiễn. Nhưng cũng lại cần làm rõ thực tiễn nào (?), trong điều kiện trình độ phát triển của Việt Nam còn thấp hơn nhiều nước trên thế giới, lại đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Thực tiễn phát triển của Việt Nam phải đặt và gắn với thực tiễn phát triển của thế giới thông qua các giá trị chung của nhân loại trong quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh : “Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại”, vì “Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó”; “Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”. Rõ ràng sự tiếp cận nghiên cứu lý luận về phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, nhất là trong thời kỳ quá độ lâu dài, phải đứng trên mảnh đất hiện thực của đất nước mình gắn liền với thực tiễn - xu thế phát triển của nhân loại, nhất là của các nước tiên tiến; vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam “Dân giàu - nước mạnh - dân chủ - công bằng - văn minh - hòa bình - phồn vinh - hạnh phúc - hội nhập quốc tế” với những giá trị đặc trưng tốt đẹp của mình.  

Mặt khác, phương pháp luận, phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu lý luận chính trị có những khác biệt căn bản với công tác tuyên truyền - giáo dục lý luận chính trị. Nếu như công tác tuyền truyền - giáo dục lý luận chính trị lấy “khẳng định”, làm rõ tính đúng đắn của đường lối, chủ trương, chính sách làm nền tảng cốt lõi chủ yếu (đương nhiên không phải là nói “lấy được”, mà phải có cơ sở lý luận, thực tiễn, có tính thuyết phục). Còn nghiên cứu lý luận chính trị không chỉ là “khẳng định”, “thuyết minh” đường lối, chủ trương đã có; mà còn có nhiệm vụ rất quan trọng là phát hiện cái mới, dự báo cái mới, luận chứng cơ sở lý luận - thực tiễn cho đổi mới đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách phát triển (có thể khác với thực tiễn đang diễn ra). Chính vì vây, nghiên cứu lý luận chính trị một mặt phải đảm bảo nguyên tắc và trách nhiệm chính trị cao nhất là phục vụ cho sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, lợi ích phát triển của đất nước, đồng thời phải có tinh thần dũng cảm cách mạng - khoa học, có không gian tự do sáng tạo trong nghiên cứu, đề xuất được những nhận thức lý luận mới phù hợp đòi hỏi của thực tiễn, vượt qua những nhận thức, quan điểm, luận điểm hiện hành đã không còn phù hợp (đây không phải là tuyên truyền, phổ biến những nhận thức, quan điểm trái với những nhận thức, quan điểm chính thống hiện hành). Điều đó cũng có nghĩa là trong nghiên cứu lý luận phát triển luôn chứa đựng bản chất cốt lõi tư duy biện chứng, sáng tạo.

 

2. Mô hình tổng thể nghiên cứu lý luận chính trị và định hướng đổi mới

Từ những đặc điểm của nghiên cứu lý luận chính trị xin đề xuất mô hình tổng thể nghiên cứu lý luận chính trị như ở mô hình sau:

Trong đó:

- Mục tiêu, định hướng nghiên cứu lý luận do các cơ quan lãnh đạo, các chủ thể nghiên cứu đặt ra, xác định (đương nhiên phải xuất phát từ yêu cầu khách quan của thực tiễn).

- Nghiên cứu cơ bản chủ yếu do các cơ quan khoa học triển khai; cơ quan nghiên cứu lý luận thực hiện nghiên cứu cơ bản ở mức độ cần thiết, còn chủ yếu sử dụng kết quả (hay phối hợp với) các cơ quan nghiên cứu khoa học khác.

- Về tổng kết thực tiễn, cơ quan nghiên cứu lý luận chính trị triển khai tổng kết thực tiễn chủ yếu theo giác độ lý luận chính trị; sử dụng kết quả tổng kết thực tiễn của các cơ quan khoa học khác.

- Thực tiễn là đối tượng nghiên cứu của lý luận chính trị; nơi ứng dụng các kết quả nghiên cứu lý luận chính trị. Vì thế, thực tiễn phải là điểm xuất phát, đồng thời là điểm đến của nghiên cứu lý luận, cơ chế, chính sách phát triển.

- Cơ sở lý luận - thực tiễn là kết quả nghiên cứu lý luận chính trị để phục vụ cho việc xây dựng đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Từ bản chất, đặc điểm của công tác lý luận, nghiên cứu lý luận và sự thể hiện qua mô hình tổng thể nghiên cứu lý luận nêu trên, cho thấy định hướng đổi mới chủ yếu là :

- Xác định đúng mục tiêu, định hướng nghiên cứu, vì nó chi phối một cách quyết định nội dung, chương trình, kế hoạch nghiên cứu.

- Hoàn thiện cơ chế gắn nghiên cứu lý luận với nghiên cứu cơ bản; nghiên cứu lý luận  có thể và cần phải dựa vào nghiên cứu cơ bản, nhưng mục tiêu và nội dung của nghiên cứu lý luận có nhiều mặt khác với nghiên cứu cơ bản. Mục tiêu của nghiên cứu lý luận là luận chứng cơ sở lý luận - thực tiễn để phục vụ cho xây dựng đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước (chưa phải là thiết kế các chính sách cụ thể; đây là nhiệm vụ của giai đoạn cụ thể hóa và thể chế hóa).

- Hoàn thiện cơ chế để nghiên cứu lý luận chính trị phải trên nền tảng gắn liền với nghiên cứu - tổng kết thưc tiễn (đặc biệt là làm rõ bản chất, xu thế và cơ chế của sự phát triển) của đất nước và kinh nghiệm của thể giới.

- Xác định rõ yêu cầu nghiên cứu lý luận chính trị là “cầu nối” giữa nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu tổng kết thực tiễn với xây dựng đường lối, chủ trương, các định hướng, cơ chế, chính sách phát triển.

- Nghiên cứu lý luận chính trị (nhất là trong bối cảnh phát triển nhanh, mang tính đột biến và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay) phải mang tính hệ thống, tính tổng hợp rất cao (sự tích hợp của nhiều khoa học, lý thuyết…), vừa đáp ứng những yêu cầu trước mắt vừa đáp ứng những yêu cầu dài hạn; đồng thời đỏi hỏi phải có tính định hướng - dự báo cao, tính thích ứng nhanh.

- Các cấp ủy đảng, nhất là những người đứng đầu, phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác lý luận, nghiên cứu lý luận đối với việc nâng cao năng lực và hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và xây dựng cơ chế, chính sách phát triển trên tất cả các lĩnh vực.

Để thực hiện có hiệu quả những nội dung trên, cần quán triệt sâu sắc ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyến Phú Trọng[11] : “phải xây dựng được một cơ chế và tạo môi trường thuận lợi để thu hút, tập hợp được đông đảo đội ngũ cộng tác viên, những chuyên gia, những nhà khoa học giỏi, có tâm, có tầm trên tất cả các lĩnh vực của đất nước; mở rộng các hình thức thảo luận, tranh luận, đối thoại lý luận trên tinh thần khoa học, dân chủ, cầu thị; thật sự trân trọng những ý tưởng, những đề xuất lý luận có giá trị, hữu ích cho sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và cho quốc kế dân sinh. Hết sức tránh tư tưởng bảo thủ, cục bộ, võ đoán, quy chụp và cách làm khép kín”;  “Phát huy dân chủ, tự do tư tưởng trong nghiên cứu lý luận vì lợi ích của đất nước, dân tộc”.

 

                                    PGS.TS Trần Quốc Toản

                                                Uỷ viên Hội đồng Lý luận TW 

 [1] Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”; Trang Thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương, 16/05/2021

  [2] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật , Hà Nội – 2021, tập 2, tr.234 -235. 

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, t.2, tr.268

 [4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, t. 5, tr. 273-274

 [5] Nhà xuất bản Dân chúng phát hành cuốn sách này vào ngày 20/7/1939 tại Hà Nội.

 [6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, t.2, tr. 259

  [7] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, t.6, tr. 247.

 [8] Quyết định số 28-QĐ/TW, ngày 25 tháng 7 năm 2016 "Về việc thành lập Hội đồng Lý luận Trung ương" của Bộ Chính trị, do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký

 [9] Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới; Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Hội nghị Trung ương 5 khóa X về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; Nghị quyết số 01-NQ/TW, ngày 28-3-1992, của Bộ Chính trị khóa VII về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay; Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9-10-2014, của Bộ Chính trị khóa XI về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030

 [10] Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9-10-2014, của Bộ Chính trị khóa XI về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030.

 [11] Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng tại Hội nghị tổng kết công tác nhiệm kỳ 2016-2021 của Hội đồng Lý luận Trung ương (17-4-2021),

 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Xem nhiều nhất

Liên kết website