Trên cơ sở định vị thế và lực của đất nước, Đại hội XIII của Đảng đã định ra tầm nhìn phát triển, tư duy đột phá với mục tiêu cụ thể, rõ ràng. Cùng với đó Đảng đề ra những định hướng, chính sách phát triển lớn trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, trong đó có vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia trong bối cảnh mới.
Tầm nhìn phát triển, tư duy đột phá phát triển đất nước
Đại hội XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh tình hình an ninh, chính trị, kinh tế thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, khó dự báo. Thế giới đang trong quá trình phân tách từ đơn cực sang đa cực bởi sự trỗi dậy mạnh mẽ của một số cường quốc và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn biến gay gắt, kéo dài. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức vô cùng lớn. Cuộc binh biến ở My-an-ma cho thấy mỗi quốc gia, dân tộc trong khu vực và trên thế giới không chỉ đang đối mặt với những thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng lớn, mà ngay cả những thách thức an ninh truyền thống cũng không phải dễ dàng giải quyết bằng con đường hòa bình. Sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi lịch sử nhân loại, không chỉ dưới góc độ đời sống xã hội mà còn làm thay đổi mạnh mẽ phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất. Cuộc cách mạng này được xác định vẫn đang ở giai đoạn đầu và tạo ra cơ hội quý giá “ngàn năm có một”, đặc biệt cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam có thể “đi tắt, đón đầu” bắt kịp các nước phát triển.
Trong bối cảnh như vậy, Đại hội XIII của Đảng đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là động lực, nguồn lực quan trọng để đất nước ta vượt qua khó khăn, thách thức, phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới(1). Trên cơ sở định vị thế và lực của đất nước, Đảng đưa ra tầm nhìn mục tiêu phát triển chiến lược, không chỉ 10 năm trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030, là mốc quan trọng kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng mà tầm nhìn còn vươn xa đến năm 2045 - năm kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể, đến năm 2030, Đảng chỉ rõ mục tiêu nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao(2). So với các kỳ Đại hội trước, chưa bao giờ Đảng ta lại vạch ra con đường phát triển dài hơi với mục tiêu phát triển cụ thể, rõ ràng và quyết tâm cao độ đến vậy. Con đường dài với những mốc mục tiêu cao mà Đảng vạch ra nhưng hoàn toàn không chủ quan, duy ý chí mà dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn, khách quan và khát vọng, mong mỏi của nhân dân, của dân tộc. Điều đó cũng thể hiện năng lực, phẩm chất, trí tuệ của Đảng cho phép có tầm nhìn xa, lãnh đạo đất nước thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Để đạt được từng mục tiêu này, Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối với những bước đi, lộ trình thích hợp cho từng năm, từng giai đoạn, từng thời kỳ của đất nước. Trong đó, Đảng đề ra ba đột phá chiến lược với nội dung cốt lõi chủ yếu là: Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học và công nghệ; tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam; tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là ưu tiên phát triển hạ tầng trọng yếu về giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, đô thị lớn, hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, vùng, địa phương kết nối đồng bộ, thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số(3).
Nội dung của ba đột phá chiến lược này có hai điểm quan trọng, đó là “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” và “phát triển hạ tầng số, kinh tế số, xã hội số”. Đây là hai điểm hoàn toàn mới, mà văn kiện đại hội các nhiệm kỳ trước Đảng ta chưa từng đề cập tới. Không phải ngẫu nhiên mà cụm từ “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” được sử dụng trong cả chủ đề Đại hội XIII của Đảng và trong các bước đột phá nêu trong văn kiện kỳ đại hội lần này. Rõ ràng, một quốc gia, dân tộc muốn phát triển vươn lên thì nhà nước và nhân dân của quốc gia, dân tộc đó trước tiên phải có khát vọng phát triển. Mục tiêu phát triển càng cao, muốn đạt được thì khát vọng phát triển phải càng lớn. Đảng ta đặt mục tiêu đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao - đây là một đích đến rất cao so với thế và lực hiện tại của đất nước ta. Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể đi đến đích nếu như toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nêu cao tinh thần đoàn kết, có chung ý chí, khát vọng cháy bỏng xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh, phát triển bền vững. Khát vọng càng mãnh liệt thì sẽ phát huy tối đa được sức mạnh nội sinh kết hợp với sức mạnh thời đại, đưa đất nước lên tầm cao phát triển mới. Khát vọng càng mãnh liệt thì sản sinh ngày càng nhiều sức sáng tạo, đưa đất nước vươn tầm cao phát triển bằng cách riêng của quốc gia, dân tộc. Khát vọng càng mãnh liệt thì mỗi quốc gia, dân tộc sẽ tìm thấy con đường phát triển ngắn nhất, hiệu quả nhất.
Cùng với khát vọng phát triển, Đảng ta cũng đề cập đến tư duy đột phá. Làm cách nào để đất nước vươn lên, phát triển cùng với các cường quốc trên thế giới? Lần đầu tiên, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề cập đến cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như là một cách tư duy, cơ hội mang tính đột phá mà toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cần chớp lấy để phát triển. Ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới là cực kỳ cấp thiết và mang tính quyết định sống còn. Thực tiễn đã chứng minh mỗi một tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp nếu không tận dụng tốt thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thì sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi hoặc tụt hậu. Trên bình diện quốc gia, quốc tế cũng vậy, nếu mỗi đất nước, dân tộc không tận dụng được thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra hiện nay thì không thể phát triển được hạ tầng số, kinh tế số, xã hội số và nguy cơ bị bỏ lại phía sau là hiện hữu.
Những định hướng, chính sách lớn phát triển đất nước
Để hiện thực hóa được các mục tiêu đề ra, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra nhiều định hướng chính sách mang tính đòn bẩy để thúc đẩy phát triển đất nước thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội; trong đó có một số lĩnh vực đáng chú ý sau:
Thứ nhất, đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Hiện nay công tác xây dựng Đảng được định hướng gắn đẩy lùi, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, những biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đồng thời, gắn với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Từ Đại hội XI đến Đại hội XIII, Đảng ta đều khẳng định quan điểm phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Cùng với việc xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả thì công tác xây dựng Đảng cũng phải không ngừng được đổi mới, củng cố về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Quá trình vận động và phát triển của Đảng phải nằm trong một thể thống nhất với sự vận động và phát triển của cả hệ thống chính trị. Đảng không bao biện làm thay, nhưng Đảng không đứng ngoài cuộc trong tiến trình vận động và phát triển của hệ thống chính trị cũng như xu thế vận động của xã hội. Trong đó, Đảng là hạt nhân lãnh đạo, chịu trách nhiệm cao nhất về sự phát triển của đất nước. Xây dựng Đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh, đồng thời hoàn thiện cơ chế vận hành của cả hệ thống chính trị một cách khoa học và hợp lý, đẩy lùi hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, quan liêu ra khỏi hệ thống chính trị, củng cố uy tín của Đảng với nhân dân.
Thứ hai, về định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng ta tiếp tục đề ra nhiều điểm mới như tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình...; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính nghiêm minh trong hoạt động của Nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đây chính là những phương hướng quan trọng trong việc xây dựng, củng cố, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng ta nhấn mạnh yêu cầu “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân” chính là cách để phát huy hiệu quả, tích cực, thực tế vai trò là chủ và làm chủ của người dân trong đời sống xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta là chế độ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Từ đó, đặt ra yêu cầu cả hệ thống chính trị phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, các điều kiện và cách thức vận hành để thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò tích cực của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững. Đây là lần đầu tiên, vấn đề “thể chế phát triển bền vững” được Đảng nêu ra trong Đại hội nhằm phát triển toàn diện mọi mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại hội nhập quốc tế, hướng đến yêu cầu phát triển nhanh, bền vững. Trong thể chế phát triển, thì thể chế chính trị là trung tâm, quyết định, chi phối thể chế của các lĩnh vực khác. Đây cũng chính là bài học được rút ra qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, cho thấy vai trò, ý nghĩa to lớn của thể chế đối với sự phát triển nói chung và trách nhiệm to lớn, nặng nề, có ý nghĩa quyết định của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện thể chế phát triển. Thể chế chính trị còn là cơ sở để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực chính để phát triển đất nước.
Thứ tư, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với định hướng cơ chế, chính sách thu hút và trọng dụng nhân tài. Giáo dục phát triển đúng hướng sẽ làm cơ sở phát triển văn hóa, khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin và khát vọng phát triển. Đây cũng là những nhân tố tác động để tạo ra một môi trường xã hội có đạo đức lành mạnh, gắn giáo dục với phát triển toàn diện con người - gắn dân số với phát triển, cải thiện toàn diện đời sống nhân dân theo đúng mục đích của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước lấy nhân dân, con người là trung tâm. Khoa học và công nghệ phát triển theo hướng gắn với những vấn đề đặt ra, yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phải có cơ chế phát triển mạnh mẽ nhằm hướng tới tạo dựng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, có tính ứng dụng cao, phù hợp với điều kiện Việt Nam, đồng thời lựa chọn phát triển một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đảng ta xác định rất rõ mục tiêu, yêu cầu của khoa học và công nghệ phải thiết thực, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo.
Đổi mới tư duy bảo vệ an ninh quốc gia từ sớm, từ xa
Nghiên cứu văn kiện Đại hội XIII của Đảng, chúng ta thấy toát lên khát vọng phát triển đất nước mãnh liệt của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân với mục tiêu phát triển rất cao. Để phát triển đất nước bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, Đảng chủ trương xây dựng đất nước phải luôn song hành với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải luôn đề cao cảnh giác, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị. Trong xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia phải đặt độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, đồng thời bảo đảm lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Phát triển tư duy về kết hợp giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại một cách chặt chẽ, hiệu quả.
Một là, quán triệt, thực hiện nội dung các văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an tiếp tục tập trung xây dựng lực lượng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng lực lượng công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Sắp xếp, hoàn thiện về tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Công an cấp cơ sở. Chú trọng xây dựng cán bộ công an cấp cơ sở đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ gắn với bố trí cán bộ theo khung tiêu chí, tiêu chuẩn 4 cấp, chủ trương luân chuyển cán bộ và bố trí Công an xã chính quy. Nghiên cứu, xây dựng Đề án tổng thể quy hoạch cán bộ chủ chốt trong Công an nhân dân, nhất là cán bộ cấp chiến lược và có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng số cán bộ theo quy hoạch. Đề xuất với Đảng, Nhà nước quan tâm hoàn thiện chế độ, chính sách phù hợp với đặc điểm công tác, chiến đấu của lực lượng công an nhân dân.
Hai là, đổi mới tư duy mang tính đột phá trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, nhất là nhanh chóng, chú trọng đầu tư nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại trong các mặt công tác công an, đặc biệt là công nghệ số, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, hiện đại hóa hệ thống thông tin liên lạc và phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ. Xây dựng nền tảng cơ sở dữ liệu và phân tích dữ liệu, thống kê về dân cư phục vụ công tác phòng, chống tội phạm. Nghiên cứu xây dựng các phần mềm ứng dụng tiện ích hỗ trợ công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, phù hợp với đặc thù hoạt động của từng lực lượng, mang tính kết nối cao và thường xuyên liên tục, ứng dụng hiệu quả thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong mọi mặt công tác công an.
Ba là, chính sách bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội được xây dựng nhất quán về chủ trương, đường lối nhưng linh hoạt, sáng tạo trong triển khai thực hiện. Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an tiếp tục tham mưu với Đảng và Nhà nước thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 51-NQ/TW, ngày 5-9-2019, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia”, Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 25-7-2018, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược an ninh mạng quốc gia”; Chỉ thị 12-CT/TW, ngày 5-1-2017, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”. Thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm đến năm 2030 và Chương trình về phòng, chống tội phạm, phòng, chống ma túy và phòng, chống mua bán người. Tiếp tục chủ động nắm, phân tích, dự báo tình hình thế giới, khu vực, nhất là sự điều chỉnh chiến lược, chính sách của các nước lớn, các nước có liên quan đến lợi ích, an ninh quốc gia của Việt Nam để kịp thời tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước các chủ trương, giải pháp bảo đảm an ninh, trật tự phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước, ngăn ngừa nguy cơ đe dọa an ninh kinh tế. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với an ninh và an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Bốn là, trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu sắc với những thách thức đe dọa của an ninh phi truyền thống cần hết sức chú trọng công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế phục vụ công tác phòng, chống tội phạm. Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các cơ quan an ninh, tình báo, cảnh sát, nội vụ các nước. Chủ động đề xuất ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế đa phương, song phương về phòng, chống tội phạm; phòng, chống khủng bố; các hiệp định về dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt tù. Chú trọng nội luật hóa những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên liên quan đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Tập trung thực hiện tốt chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng các dự án luật, pháp lệnh được giao chủ trì nghiên cứu, xây dựng. Phối hợp với các ban, bộ, ngành, địa phương liên quan xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Tiếp tục đổi mới tư duy trên cơ sở nhận thức mới về an ninh quốc gia, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc; về đối tượng, đối tác; về quan điểm tư tưởng chỉ đạo các mặt công tác công an để bổ sung, phát triển, hoàn thiện hệ thống lý luận nghiệp vụ, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.
PGS, TS. NGUYỄN VĂN THÀNH
Thượng tướng, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương,
nguyên Thứ trưởng Bộ Công an
--------------
(1) Xem: Hội đồng Lý luận Trung ương: Những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 11
(2), (3) Xem: Văn kiện Đại hội đại biển toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, t. I, tr. 112, 114 - 120