Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là kết tinh ý chí đấu tranh anh dũng, bền bỉ, kiên trì, trí tuệ khoa học, sáng tạo của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong suốt 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược và các đối tượng phản động tay sai. Đây là thắng lợi của khát vọng hòa bình, của chính nghĩa; thắng lợi của tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế; biểu tượng của tinh thần quật khởi “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của nhân dân hai miền Nam-Bắc. Tổng tiến công nổi dậy năm 1975 còn là thắng lợi sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đóng góp quan trọng trong suốt quá trình kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thể hiện thông qua nhiều nhiệm vụ then chốt.
1. Tham mưu với Đảng, Nhà nước trong xây dựng lực lượng Công an nhân dân, đấu tranh chống phản cách mạng, chuẩn bị toàn diện cho chiến thắng mang tính chất bước ngoặt trên chiến trường
Tại Đại hội lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960), Đảng đã đề ra những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về đấu tranh chống phản cách mạng, trở thành quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ quan điểm chỉ đạo đó, ngày 20/01/1962, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 39-NQ/TW “Về tăng cường công tác đấu tranh chống các bọn phản cách mạng để phục vụ tốt công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh nhằm thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà”. Nghị quyết đã chỉ rõ mục tiêu, nhiệm vụ, đường lối, nguyên tắc, phương châm, chính sách đấu tranh trấn áp phản cách mạng, góp phần hoàn thiện một bước đường lối, chủ trương đấu tranh chống phản cách mạng bảo vệ an ninh, trật tự trong tình hình mới.
Cùng thời gian này, Bộ Chính trị cũng ra Nghị quyết số 40-NQ/TW về củng cố và tăng cường lực lượng Công an nhân dân, nhấn mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thành “một công cụ chuyên chính tuyệt đối trung thành với Đảng, có liên hệ mật thiết với quần chúng, có tính chất vũ trang, có tổ chức chặt chẽ, thông thạo nghiệp vụ và có trình độ khoa học - kỹ thuật.”[1]. Nghị quyết số 40 của Bộ Chính trị lần đầu tiên chính thức xác định Công an nhân dân mang tính chất vũ trang và nằm trong khu vực an ninh-quốc phòng. Đây là cơ sở rất quan trọng, định hướng cơ bản, lâu dài, xây dựng và phát triển toàn diện lực lượng Công an nhân dân trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cả những giai đoạn về sau.
Để tăng cường công tác bảo vệ nội bộ, chuẩn bị đối phó đánh phá bằng không quân, hải quân và chiến tranh gián điệp biệt kích của địch, Đảng đoàn, Bộ Công an tham mưu Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 96/CT-TW (ngày 7/5/1965) về tăng cường công tác bảo mật phòng gian, bảo vệ bí mật nhà nước, Chỉ thị số 90/CT-TW (tháng 3/1965) về mở cuộc vận động bảo vệ Đảng và sau đó là Chỉ thị số 115/CT-TW về công tác giáo dục cải tạo tại chỗ. Từ đó, hệ thống quan điểm, tư tưởng chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ công tác Công an của Đảng được phát triển, bổ sung và hoàn chỉnh, hướng tới việc hoàn thiện nhận thức về tính chất, bản chất, đối tượng, phạm vi của cuộc đấu tranh chống phản cách mạng và tội phạm khác.
Trên chiến trường miền Nam, do tính chất đặc điểm của cuộc đấu tranh, công tác xây dựng lực lượng An ninh từng bước được xây dựng cả về chính trị tư tưởng, tổ chức bộ máy, đào tạo bồi dưỡng cán bộ và nghiệp vụ thích ứng với tình hình nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng. Với sự ra đời của Ban Bảo vệ an ninh, lực lượng an ninh miền Nam được hình thành gồm hai lực lượng cơ bản là Trinh sát vũ trang và An ninh vũ trang. Lực lượng Trinh sát vũ trang hoạt động trong vùng kiểm soát, vùng tranh chấp và vùng giải phóng, làm nhiệm vụ điều tra, nắm tình hình địch, xây dựng cơ sở cách mạng, tấn công làm vô hiệu hóa các hoạt động điều tra, thu thập tin tình báo của địch, hoạt động của các đảng phái phản động; bảo vệ nội bộ Đảng, chính quyền, các hoạt động cách mạng trong vùng giải phóng. Lực lượng An ninh vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ cách mạng, bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ cán bộ cao cấp của Trung ương Cục và ban lãnh đạo khu, tỉnh, chống địch càn quét, lấn chiếm, trừ gian, diệt ác trong vùng địch chiếm đóng.
Sau Hiệp định Pari được ký kết, Bộ Công an và các địa phương gấp rút triệu tập hàng trăm cán bộ, chiến sĩ thuộc các lực lượng nghiệp vụ, cơ yếu, mật mã đi tập huấn và khẩn trương tăng cường chi viện cho An ninh miền Nam. Trong năm 1975, tính đến trước 30/4, có 3361 cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân, riêng từ năm 1973 đến năm 1975, tiếp tục chi viện 992 cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang cho An ninh Trung ương Cục[2]. Sự chi viện của Công an miền Bắc đã góp phần tích cực, cùng các lực lượng An ninh miền Nam kịp thời triển khai các mặt công tác phục vụ việc thi hành Hiệp định Paris, tham gia các Ban trao trả, phái đoàn liên hiệp quân sự 4 bên và quản lý an ninh, trật tự vùng giải phóng.
Để chuẩn bị cho những thắng lợi mang tính bước ngoặt trên chiến trường, lực lượng Công an hai miền Nam-Bắc đã thực hiện tốt nhiệm vụ làm tham mưu cho các cấp ủy, chính quyền ban hành, hướng dẫn, triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về đấu tranh chống phản cách mạng để bảo vệ an ninh trật tự, chủ động đối phó kịp thời, có hiệu quả với các loại hình chiến tranh kiểu mới của đế quốc Mỹ, đấu tranh và làm thất bại mọi phương thức chiến tranh gián điệp, gián điệp biệt kích, các hoạt động phá hoại của các thế lực phản động và hoạt động gây phỉ ở miền Bắc; các kế hoạch, chương trình tình báo, gián điệp cảnh sát, chiêu hồi, chiến tranh tâm lý của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam.
2. Công tác tình báo, thu thập thông tin chiến lược
Trong chiến tranh, thông tin là vũ khí quan trọng, quyết định khả năng chủ động và sức tấn công của lực lượng cách mạng. Công tác tình báo của Công an nhân dân đã được tổ chức một cách bài bản, tạo ra mạng lưới “tai mắt” sâu rộng trong lòng đối phương.
Một là, xây dựng hệ thống nội tuyến trong lòng địch: lực lượng An ninh miền Nam đã cài cắm các đơn vị tình báo vào các cơ quan then chốt của chính quyền Sài Gòn như Bộ Tổng Tham mưu, Phủ Tổng thống, và cả các đơn vị cảnh sát Quốc gia. Một ví dụ tiêu biểu là chiến sĩ tình báo nổi tiếng Phạm Xuân Ẩn, người đã hoạt động dưới vỏ bọc công chức, thu thập hàng loạt thông tin mật về bố trí binh lực, cơ cấu phòng thủ và các kế hoạch tác chiến của địch. Thông tin do nội tuyến cung cấp đã giúp Bộ Tổng Tham mưu nhận ra điểm yếu trong hệ thống phòng thủ của Sài Gòn, từ đó lên kế hoạch tấn công bất ngờ vào các điểm trọng yếu như đài phát thanh và các trụ sở chính quyền.
Hai là, hỗ trợ cho các chiến dịch lớn: các thông tin tình báo chính xác đã tạo điều kiện cho quân giải phóng triển khai các chiến dịch quyết định như chiến dịch Tây Nguyên - Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh. Việc nắm bắt đúng thời điểm và cách thức của đối phương cho phép lực lượng cách mạng phối hợp nhịp nhàng giữa các đơn vị, tạo nên sức tấn công bất ngờ, làm rối loạn hệ thống chỉ huy của Sài Gòn. Trong những ngày cuối cùng của chiến dịch, các thông tin từ hệ thống nội tuyến giúp các đơn vị chỉ huy nhận biết được những thay đổi trong tình hình phòng thủ của địch, từ đó điều chỉnh chiến thuật tấn công kịp thời và hiệu quả.
Ba là, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ tình báo: thành công của công tác tình báo không chỉ nằm ở hệ thống nội tuyến mà còn ở chất lượng cán bộ được đào tạo bài bản. Các lớp bồi dưỡng về nghệ thuật thu thập thông tin, phản gián và phân tích chiến lược đã góp phần tạo ra một đội ngũ chuyên nghiệp, linh hoạt và ứng phó nhanh nhạy với diễn biến chiến trường.

An ninh vũ trang miền Nam thống nhất ý kiến trước giờ đánh vào Sài Gòn. Ảnh: Tư liệu
3. Phối hợp với các lực lượng, tổ chức lực lượng an ninh khu vực và cơ sở quần chúng trong lòng địch
Lực lượng Công an nhân dân tích cực phối hợp với Quân đội và tổ chức phòng thủ nội địa, đóng vai trò là “cầu nối” giữa lực lượng quân sự và quần chúng, đảm bảo việc truyền đạt thông tin và chỉ đạo nhanh chóng, chính xác. Sự phối hợp chặt chẽ giữa Công an và Quân đội giúp tạo ra sức mạnh tổng hợp, đồng bộ hành động trên nhiều mặt trận. Trong các khu vực có xung đột, các đơn vị an ninh đã phối hợp cùng lực lượng Quân đội tổ chức các điểm kiểm soát, cùng nhau bảo vệ các khu vực dân cư và cơ sở hạ tầng quan trọng, tạo nên một “lá chắn” an ninh vững chắc.
Xác định vai trò quan trọng của nhân dân trong đấu tranh chống phản cách mạng, lực lượng An ninh chủ động xây dựng cơ sở cách mạng trong quần chúng, linh hoạt các hình thức tập hợp quần chúng, bám sát vào các tầng lớp nhân dân trong thành phố, từ công nhân, sinh viên đến các tổ chức tôn giáo và hiệp hội. Nhân dân trở thành “tai mắt” của cách mạng, luôn cập nhật tình hình và sẵn sàng phản ứng khi có dấu hiệu của hoạt động chống phá. Trước ngày 30/4, nhiều cơ sở như trường học, xí nghiệp, chi hội đã có những tổ chức cơ sở cách mạng hoạt động bí mật, giúp lan tỏa tinh thần khởi nghĩa và cung cấp thông tin quan trọng cho các chiến dịch.
Khi thời cơ đến, các lực lượng an ninh trong đô thị đã nhanh chóng chuyển sang trạng thái hành động, chiếm lĩnh các cơ sở quan trọng như đài phát thanh, tòa nhà chính quyền, kho vũ khí và các trung tâm thông tin. Vào ngày 30/4/1975, ở Sài Gòn, nhiều đồn công an, trụ sở báo chí và các trung tâm hành chính bị chiếm giữ trong vài giờ đầu tiên, làm tê liệt khả năng kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, góp phần tạo nên sức mạnh cho cuộc tổng tiến công. Hệ thống an ninh của Sài Gòn vốn được xây dựng dựa trên cơ chế trung ương và các đơn vị chuyên trách, nhưng sự xuất hiện đột ngột của lực lượng nội ứng và các đơn vị biệt động đã làm rối loạn toàn bộ hệ thống chỉ huy của địch. Các chiến dịch tấn công vào các điểm trọng yếu đã khiến cho địch không kịp phản ứng, từ đó hệ thống chỉ huy và điều phối trở nên hỗn loạn, mất khả năng ra lệnh kịp thời, dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của chính quyền Sài Gòn.
4. Trực tiếp chiến đấu trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử và bảo vệ các mục tiêu chiến lược sau ngày giải phóng
Chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, Ban An ninh Trung ương Cục đã lập một kế hoạch toàn diện về tiến công, chiếm lĩnh các mục tiêu, lập hồ sơ các đối tượng phản cách mạng nguy hiểm. Ðể phục vụ kế hoạch tiến công, chiếm lĩnh các cơ quan, công sở của địch, lực lượng điệp báo, trinh sát vũ trang, an ninh Sài Gòn - Gia Ðịnh phối hợp các cơ sở bí mật gấp rút điều tra, lập hồ sơ hệ thống bố phòng của địch, dựng lại sơ đồ tổ chức các cơ quan tình báo gián điệp, cảnh sát, hệ thống kìm kẹp và tổ chức phản cách mạng; lập hồ sơ, phân loại các đối tượng nguy hiểm cần trấn áp; chuẩn bị các thông cáo, lệnh, thư, khẩu hiệu để phát động khí thế cách mạng của quần chúng, tiến công chính trị vào hàng ngũ địch.
Lực lượng An ninh T4 (An ninh Sài Gòn - Gia Định) hình thành bốn cánh quân tham gia cuộc tiến công chiếm lĩnh các mục tiêu được phân công: Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia, Bộ Chỉ huy Cảnh sát đô thành, Ty Cảnh sát Gia Định và một số ty cảnh sát quận. Nhờ được chuẩn bị toàn diện, trong quá trình diễn ra chiến dịch, lực lượng An ninh T4 đã bảo vệ tuyệt đối an toàn các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo chiến dịch, bảo vệ các cuộc hành quân và vận chuyển vũ khí, phương tiện, các hướng tiến công chiến lược, bảo vệ lực lượng vũ trang; tham gia tích cực nhiệm vụ mở đường, tấn công từ bên ngoài kết hợp với nổi dậy từ bên trong, góp phần đập tan sự phản kháng của các đối tượng phản cách mạng, nhanh chóng chiếm lĩnh các mục tiêu được phân công; chốt giữ các cửa ngõ ra vào thành phố, ngăn chặn, bắt giữ số đối tượng chạy trốn.
Trước sức mạnh tiến công như vũ bão của lực lượng vũ trang và nhân dân ta, An ninh T4 nhanh chóng có mặt tại Phủ Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn, tiếp cận thuyết phục Dương Văn Minh kêu gọi binh sỹ ngừng bắn, bàn giao chính quyền cho cách mạng, góp phần tránh một cuộc chiến tranh trong thành phố và những đổ máu không cần thiết. Lực lượng An ninh T4 đã nhanh chóng cơ động chiếm và tiếp quản, bảo vệ toàn bộ hệ thống hồ sơ, tài liệu địch bỏ lại tại Tổng nha Cảnh sát quốc gia và nhiều địa điểm khác.
Sau chiến thắng, nhiệm vụ của lực lượng An ninh không dừng lại ở khâu hỗ trợ tiến công mà còn mở rộng ra việc bảo vệ trật tự, ổn định chính trị và tái thiết đất nước. Ngay sau ngày 30/4/1975, lực lượng Công an nhân dân đã nhanh chóng kiểm soát và bảo vệ các cơ sở hành chính, trụ sở chính quyền, kho vũ khí và các trung tâm thông tin của chế độ cũ. Việc này giúp ngăn chặn tình trạng hỗn loạn, cướp bóc, đồng thời bảo vệ tài sản quốc gia và đảm bảo quá trình chuyển giao quyền lực diễn ra suôn sẻ. Ở Sài Gòn và các thành phố lớn khác, ngay sau khi giải phóng, các đội công an đã lập tức đóng cửa các cơ sở báo chí của địch, giữ chặt các kho vật tư quân sự và bảo vệ an ninh tại các điểm nóng, tạo nên một môi trường ổn định cho quá trình xây dựng lại đất nước. Ở miền Nam, các chiến dịch “dọn dẹp” sau giải phóng đã thu hồi được hàng loạt tài liệu mật, vũ khí cũ và bắt giữ được nhiều đối tượng có liên quan đến hoạt động chống phá, từ đó củng cố vững chắc nền an ninh nội địa.
Sau chiến thắng, lực lượng An ninh không chỉ đảm bảo an ninh mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì trật tự xã hội, hỗ trợ các hoạt động kinh tế - xã hội và tái thiết đất nước. Việc bảo vệ nhân dân, ổn định đời sống giúp mọi người nhanh chóng lấy lại niềm tin và hướng tới một tương lai mới tươi sáng. Các đơn vị an ninh được giao nhiệm vụ tuần tra tại các khu dân cư, hỗ trợ giải quyết các vụ việc tranh chấp, cướp bóc, qua đó giúp dân chúng cảm thấy an tâm và hỗ trợ tích cực cho các công cuộc xây dựng xã hội mới.
Ghi nhận công lao đóng góp đó, Đảng, Nhà nước đã tặng thưởng lực lượng Công an nhân dân nhiều phần thưởng cao quý trong đó đã phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 331 tập thể và 265 cá nhân và nhiều phần thưởng cao quý khác[3]. Để có được những thắng lợi đó, lực lượng Công an nhân dân, nhất là An ninh miền Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, mất mát và hy sinh. Thành tích và những chiến công thầm lặng của lực lượng An ninh miền Nam góp phần tô thắm tuyền thống anh hùng, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam, xứng đáng được trân trọng, tôn vinh và biết ơn cảm phục của các thế hệ Công an nhân dân hôm nay và mai sau.
TS, Thiếu tá Lê Mai Trang
Phó trưởng Khoa Lịch sử Đảng và TTHCM-T03
[1] Bộ Công an, Lịch sử xây dựng lực lượng Công an nhân dân - Biên niên sự kiện, Tập II (1954-1975), Nxb CAND.H.2001
[2] Ban Chỉ đạo tổng kết Lịch sử Bộ Công an, Tổng kết lịch sử Công an nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb CAND, H.2017, tr.434, 435.
[3] Lưu tại Phòng Thi đua khen thưởng, Cục Công tác Đảng, công tác chính trị, Bộ Công an.