Các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật có tính biện chứng, là những vấn đề cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng; đó là nhận thức mang tầm lý luận, thể hiện bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng ta. Đại hội XIII của Đảng khi xác định 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản, 12 định hướng phát triển và 10 mối quan hệ lớn đã làm mới, làm phong phú, cụ thể hơn lý luận đổi mới, lý luận phát triển, đem lại câu trả lời khoa học về chủ nghĩa xã hội Việt Nam, con đường và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Các mối quan hệ lớn trong lý luận đổi mới, lý luận về chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đổi mới ở Việt Nam đã trải qua một chặng đường hơn 35 năm, từ Đại hội VI (tháng 12-1986) đến Đại hội XIII (tháng 1-2021). Đổi mới mang tầm vóc của một cuộc cách mạng, là quá trình cải biến cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở nước ta. Đổi mới lại diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng trở nên mạnh mẽ, là một xu hướng tất yếu, khách quan, không thể đảo ngược và ngày càng trở nên phổ biến, tác động đến tất cả các quốc gia - dân tộc, trong đó có Việt Nam. Tác động đó bao gồm cả mặt tích cực lẫn tiêu cực, vừa tạo thời cơ, vận hội lớn để phát triển, vừa làm xuất hiện nhiều thách thức và nguy cơ trong quá trình phát triển.
Việc nhận thức và xử lý những vấn đề và tình huống ấy tất yếu làm bộc lộ các mối quan hệ trong đổi mới và phát triển. Giải quyết các mối quan hệ này phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, nhất là tư duy lý luận, tư duy phát triển, tư duy sáng tạo; đồng thời, phải đổi mới mô hình phát triển, đổi mới thể chế (nhất là luật pháp), thiết chế (tổ chức, bộ máy), cũng như cơ chế và chính sách, để thu hút nguồn lực đầu tư, tận dụng những thành tựu khoa học - công nghệ mới nhất; bên cạnh đó, cũng phải thay đổi cả phương pháp và phong cách lãnh đạo, cầm quyền, quản lý và quản trị kinh tế - xã hội nhằm thúc đẩy phát triển, tháo gỡ những lực cản kìm hãm phát triển và tiến bộ, đề phòng và ngăn chặn các “phản phát triển”.
Chủ thể nhận thức và hành động (bao giờ cũng là con người), thực hiện sự tác động vào những không gian xã hội và những thời gian chính trị xác định. Đó là những bản thể nằm trong một cấu trúc xã hội hết sức phức tạp và khác biệt, trong đó có chính thể, gắn liền với chính đảng, nhà nước, hệ tư tưởng và hệ thống luật pháp; có chế độ kinh tế với những mô hình kinh tế khác nhau, cụ thể là những mô hình khác nhau về kinh tế thị trường(1). Giờ đây còn có kinh tế tri thức, kinh tế số trong chuyển đổi số; và, để thích ứng với những tình huống khác nhau của thảm họa môi trường toàn cầu, đang dần dần xuất hiện các thuật ngữ kinh tế mới, như “kinh tế xanh”, “kinh tế tuần hoàn”, “kinh tế thân thiện với môi trường”... Sự phức tạp và khác biệt trong cấu trúc xã hội còn phải được nhìn nhận về mặt văn hóa. Đây là nơi diễn ra những giao thoa và tiếp biến giữa các loại hình, chuẩn mực, giá trị văn hóa rất khác nhau; cùng tác động vào tâm lý, ý thức, lối sống, phong tục, tập quán của các cộng đồng dân cư, các thế hệ, nhất là giới trẻ. Lực lượng sản xuất đã phát triển vượt ra khỏi địa vực quốc gia, trở thành lực lượng sản xuất thế giới. Khái niệm “công dân” truyền thống trong một quốc gia đã tiến đến khái niệm “công dân toàn cầu”. Giao lưu, tiếp xúc, đối thoại văn hóa giữa các nền văn hóa trong quá trình hội nhập chẳng những làm phong phú và mới lạ thêm các sắc thái, bản sắc văn hóa dân tộc, khu vực, mà còn làm đa dạng, phong phú thêm đời sống văn hóa thế giới; song, bên cạnh đó, thách thức về sự đánh mất cái bản ngã văn hóa của chính mình trong hội nhập quốc tế về văn hóa cũng trở nên gay gắt đối với mỗi quốc gia, dân tộc.
Giải quyết tình huống này, tất yếu đụng chạm đến việc phải giải quyết mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa tiếp nhận và chối từ, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lưu giữ và làm mới các giá trị văn hóa, ở cả hai cấp độ địa phương và thế giới. Mặc dù vậy, không ai có thể hoài nghi hay phủ nhận tầm nhân văn phổ quát của văn hóa hòa bình và văn hóa khoan dung - nơi gặp gỡ, đồng cảm sâu sắc giữa các dân tộc để cùng đồng hành với nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, đã tỏ rõ một nỗ lực đầy bản lĩnh hướng tới tầm nhân văn phổ quát đó. Bằng hành động và phép ứng xử, Người đã đưa ra những thông điệp văn hóa như thế để cổ vũ các dân tộc cùng phát triển trong hợp tác, tin cậy lẫn nhau, trong tình hữu nghị.
Quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh diễn ra những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, văn hóa của tiến trình toàn cầu hóa như đã nêu trên, đòi hỏi sự chú ý đặc biệt và thường xuyên tới các vấn đề xã hội gắn với môi trường, bảo đảm sự an toàn cuộc sống của con người, an ninh con người và tính triển vọng trong cuộc sống của cá nhân và cộng đồng. An sinh xã hội với việc làm, thu nhập, mức sống, chống đói nghèo và bần cùng hóa đi liền với an toàn lương thực, thực phẩm, nguồn nước, nhà ở, giao thông... luôn là những vấn đề thời sự. Trong không ít trường hợp và tình huống, nỗ lực của từng quốc gia, nhà nước, chính phủ đã tỏ ra không đủ, đòi hỏi cần có viện trợ nhân đạo quốc tế, trong những tình huống khẩn cấp, như đại dịch COVID-19 hiện nay; nhất là, với các quốc gia nghèo lại bị đè nặng chồng chất bởi thiên tai, dịch bệnh và các cuộc chiến tranh cục bộ. Do đó, nỗ lực cộng đồng gắn với trách nhiệm toàn cầu để cùng chung tay giải quyết nhu cầu tồn tại và sống của con người và loài người đang trở nên vô cùng cấp bách. Giải quyết các vấn đề xã hội trong phát triển xã hội ở trạng thái bình thường đã khó và phức tạp, thì trong trạng thái không bình thường như hiện nay lại càng khó khăn và phức tạp hơn. Tình hình ấy cho thấy, để giải quyết bài toán phát triển với tư duy xã hội học, chủ thể hành động phải rất chú trọng tới tư duy hệ thống và quan điểm phức hợp trong tìm kiếm chính sách và giải pháp.
Phát triển luôn luôn là vấn đề phức tạp, từ lý luận phát triển đến thực tiễn phát triển. Khuynh hướng giản đơn hóa, giản lược hóa trong nhận thức và hành động khi xử lý các vấn đề phát triển chỉ dẫn đến sự kéo dài cách lãnh đạo, quản lý theo kiểu hành chính mệnh lệnh, chủ quan, duy ý chí, vốn tiềm ẩn rất nhiều xung đột, khủng hoảng, và những hệ lụy của nó trong thực tiễn hiện nay. Diễn tiến của phát triển đều cho thấy, bản thân các vấn đề mới phát sinh thường nhiều hơn và phức tạp hơn so với những vấn đề đã được giải quyết. Trước yêu cầu của xã hội hiện đại và xu hướng hiện đại hóa, hoạt động lãnh đạo và quản lý, phẩm chất, năng lực của nhà lãnh đạo, quản lý, nhất là ở tầm chính khách đòi hỏi sức sáng tạo lớn, sức mạnh của những tiên liệu, tiên cảm và dự báo. “Tương lai học” - khoa học dự báo chiều hướng vận động của tương lai - ngày càng có vị trí nổi bật, không chỉ trong tiến trình phát triển nội tại của khoa học, của lý luận, mà còn rất phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội và hoạt động lãnh đạo, quản lý hiện nay. Để chủ động trước mọi tình huống, theo triết lý an - nguy (lường trước hiểm họa khi nước còn yên), bảo đảm tăng hiệu quả hành động, giảm thiểu tới mức thấp nhất những thiệt hại, cần nâng cao tầm nhìn và khả năng dự báo. Nếu thụ động và bị động trước tình huống xảy ra, thì khó lòng tránh khỏi những “sự tròng trành, mất phương hướng và rất dễ sai lầm” (V.I. Lê-nin), kết cục là thất bại, với hậu quả khôn lường.
Rõ ràng, năng lực và hiệu quả lãnh đạo, quản lý của chủ thể phụ thuộc vào khả năng nhận thức các mối quan hệ và xử lý các mối quan hệ đó. Điều đó đã được minh chứng bằng một số sự kiện và quyết sách từ thực tiễn đổi mới của Việt Nam.
- Khi khởi xướng đổi mới trong tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng với “lạm phát phi mã” (774%), vì sao Đảng ta nêu rõ, phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế? Đồng thời, thấy rõ sự cần thiết phải đổi mới chính trị nhưng phải thận trọng, từng bước, trên cơ sở đã đạt được một số kết quả trong đổi mới kinh tế để cải thiện đời sống cho người dân (dân sinh). Đổi mới chính trị, trước hết là đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Vì sao, để đổi mới phải có tiền đề là ổn định và lực đẩy là dân chủ hóa? Đây đều là những quyết định sáng suốt trong nhận biết và thực hiện các mối quan hệ lớn, mà cốt lõi là quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa kinh tế và xã hội.
- Nhận biết tác động giữa thời cơ và thách thức trong đổi mới. Đây là một quan hệ đặt ra từ tác động của thời đại và thời cuộc. Để giải quyết nó, yêu cầu đặt ra là phải chủ động mở cửa và hội nhập, từ hội nhập kinh tế đến hội nhập quốc tế.
- Chủ trương hợp tác vừa song phương, vừa đa phương, lại đa phương hóa và đa dạng hóa trong hội nhập quốc tế, xác định hợp tác đi liền với cạnh tranh và đấu tranh trong quan hệ cùng tồn tại các dòng ý thức hệ khác nhau, các mô hình chính thể và kinh tế khác nhau, trong quan hệ phụ thuộc và tùy thuộc lẫn nhau; do đó, Đảng ta nhất quán với đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị và chính sách ngoại giao linh hoạt, mềm dẻo. Trong hội nhập có hòa nhập, nhưng hòa nhập mà không hòa tan, đổi mới mà không đổi màu (nghĩa là hội nhập và đổi mới nhưng vẫn giữ vững độc lập chủ quyền và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa). Đây không chỉ là tư duy sáng suốt trong xử lý các quan hệ, mà còn thể hiện bản lĩnh chính trị, sự nhạy cảm, mẫn cảm về chính trị do thực tiễn và kinh nghiệm, có “trí khôn của cuộc sống” mách bảo để tìm đúng thế và phép ứng xử trong bang giao quốc tế: “Làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng, mẫu mực trong giải quyết các vấn đề bang giao quốc tế của Việt Nam ở tầm văn hóa chính trị. Đảng ta đã thấm nhuần tư tưởng đó của Người trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới.
- Do đó, thời điểm xảy ra sự biến chính trị ở Liên Xô và các nước Đông Âu, bắt đầu với sự kiện bức tường Béc-lin ở Cộng hòa Dân chủ Đức sụp đổ (năm 1989), nước ta mới chỉ vừa bước vào đổi mới, với khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng; Đảng ta đã nhanh chóng quyết định phải có Cương lĩnh mới, được đưa ra tại Đại hội VII của Đảng, năm 1991. Đây là Cương lĩnh của đổi mới. Nhờ có “ngọn cờ” tập hợp đó, Việt Nam đã “thoát hiểm” và không xảy ra khủng hoảng chính trị. Đó là một trong những đặc điểm nổi bật và đặc sắc của đổi mới ở Việt Nam, có được nhờ nhận thức đúng và xử lý tốt các mối quan hệ lớn.
Có thể nói, để từng bước hình thành và phát triển lý luận, từ định hướng tới định hình lý luận đổi mới, lý luận chủ nghĩa xã hội Việt Nam, lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, mô hình chủ nghĩa xã hội trong đổi mới), thì lý luận về các mối quan hệ lớn có tầm quan trọng đặc biệt; có vị trí và vai trò không thể thiếu trong tư duy lý luận của Đảng, trong xây dựng hệ thống lý luận đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam dưới tác động đồng thời của tính phổ biến (tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội), cũng như tính đặc thù (bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa)(2).
Đảng ta đã từ thực tiễn mà làm sáng tỏ lý luận, đã từ thực tiễn đổi mới mà hình thành nên nhận thức lý luận mới về chủ nghĩa xã hội, thông qua nghiên cứu - khảo sát - tổng kết thực tiễn, đã tự giải phóng mình ra khỏi những giáo điều xơ cứng, chủ nghĩa kinh nghiệm và tư duy siêu hình. Trước câu hỏi lớn đặt ra với hai mặt hợp thành: Chủ nghĩa xã hội là gì? Xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, của thế giới và thời đại? Đảng đã có câu trả lời từ thực tiễn, nhất là qua hai cuộc tổng kết lớn (20 năm, 30 năm đổi mới). Đó là:
+ Từng bước xác định mục tiêu của đổi mới để định hình đặc trưng tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Từng bước bổ sung các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
+ Từng bước làm sáng tỏ các phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
+ Từng bước nhận biết, bổ sung, phát triển và điều chỉnh các mối quan hệ lớn có tính quy luật của đổi mới và phát triển, đổi mới và hội nhập, đổi mới và hiện đại hóa Việt Nam.
Đại hội XI của Đảng (năm 2011) lần đầu tiên đã đưa vào Văn kiện và Nghị quyết của Đại hội tám mối quan hệ lớn, bao quát các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh - đối ngoại, dân tộc và quốc tế, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Cùng với việc khẳng định tám mối quan hệ lớn đã xác định, Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đã bổ sung một quan hệ, đó là quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.
Tại Đại hội XIII của Đảng (năm 2021), trên cơ sở tổng kết 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, trong đó có 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm 2011... Đảng ta đã đặc biệt nhấn mạnh quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là quan hệ thứ mười, hợp thành hệ thống mười mối quan hệ lớn có tính quy luật của đổi mới và phát triển của Việt Nam.
Đảng ta quan niệm rằng, để thực hiện được 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản, 12 định hướng chiến lược phát triển đất nước trong nhiệm kỳ khóa XIII (2021 - 2026), hướng tầm nhìn tới năm 2030 - 2045, phấn đấu tới giữa thế kỷ (năm 2045) Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao thì phải nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn. Tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện(3).
Cho đến nay, sự hình thành, bổ sung, phát triển lý luận của Đảng ta từ thực tiễn đổi mới đã phản ánh trình độ trưởng thành về tư duy lý luận của Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, được xác định bởi hệ thống tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, tám phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mười mối quan hệ lớn có tính quy luật, được nêu trong Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh năm 2011, trong Văn kiện Đại hội XI, XII và XIII của Đảng. Đó là sản phẩm lý luận kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân tộc, bắt nguồn sâu xa và trực tiếp từ thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam, từ thực tiễn đổi mới, hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh - được khẳng định là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta.
Giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn của các mối quan hệ lớn đối với Đảng, dân tộc và nhân dân ta trong thời kỳ mới để thực hiện khát vọng phát triển Việt Nam
Các mối quan hệ lớn được xác định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng bao gồm:
- Quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển.
- Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
- Giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
- Giữa nhà nước, thị trường và xã hội.
- Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
- Giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
- Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
- Giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Văn kiện Đại hội XIII cũng nhấn mạnh, đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả(4).
Có thể thấy, quá trình nhận thức của Đảng về các mối quan hệ lớn phản ánh các quy luật của đổi mới và phát triển, trở thành những vấn đề cốt lõi của đường lối đổi mới của Đảng ta qua những biểu hiện vừa bổ sung, vừa điều chỉnh. Đó là bổ sung quan hệ mới, là điều chỉnh trật tự lô-gic giữa các yếu tố tham gia vào quan hệ cũng như quan hệ giữa các quan hệ với nhau, từ bộ phận tới chỉnh thể hệ thống. Đường lối đổi mới, xét về mặt lý luận, cũng là lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là chủ nghĩa xã hội sinh thành trong đổi mới, phát triển và từng bước hoàn thiện từ đổi mới.
Với các đại hội đầu thời kỳ đổi mới, mục tiêu đổi mới chỉ là thực hiện “dân giàu, nước mạnh”. Đến các đại hội sau đó, lần lượt bổ sung thành “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Nhận thức về công bằng gắn với bình đẳng cho thấy sự phát triển, từ chỗ công bằng chỉ trong phân phối lợi ích, tiến đến công bằng cả về cơ hội phát triển, đã khắc phục nhận thức không đúng trước đó, khi hiểu công bằng là bình quân, chia đều mà thực ra đó là phản công bằng, làm triệt tiêu động lực phát triển. Công bằng trong phân phối lợi ích chỉ là điều kiện cần, công bằng về cơ hội phát triển mới là điều kiện đủ, phản ánh đúng bản chất nhân văn của chủ nghĩa xã hội, là điểm cốt yếu, thực chất của động lực phát triển.
Đến Đại hội IX (năm 2001), “dân chủ” được xác định trong hệ mục tiêu của đổi mới, trở thành “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Qua Đại hội X (năm 2006), đến Đại hội XI (năm 2011), dân chủ vừa là giá trị, vừa là mục tiêu và động lực của đổi mới, là một trong những đặc tính thể hiện bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội, nên Đảng ta đã chính xác hóa trong diễn đạt, trình bày hệ mục tiêu của đổi mới là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Xác định bản chất và những đặc trưng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, Đại hội XI và XII của Đảng nhấn mạnh, hệ mục tiêu của đổi mới chính là định nghĩa tổng quát về chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng là một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Cũng như vậy, xã hội xã hội chủ nghĩa được xây dựng ở Việt Nam là một xã hội do nhân dân làm chủ, khác với quan niệm trước đó về “nhân dân lao động làm chủ”. Đây không phải là thay đổi quan điểm, xa rời nguyên tắc chủ nghĩa xã hội như có người không hiểu đã phê phán Đảng ta, mà trái lại, đó mới là “gần” chủ nghĩa xã hội hơn, bởi đã tính đến sự phát triển kinh tế thị trường, trong đó có sự phát triển mạnh mẽ, lâu dài của kinh tế tư nhân, mà “tư nhân” không phải ai khác, chính là một bộ phận của quần chúng nhân dân. Lý luận cũng như thực tế, đòi hỏi phải vượt qua kiểu tư duy biệt phái, đối lập giả tạo và khiên cưỡng giữa “nhân dân lao động”, coi chỉ có bộ phận này mới là nòng cốt, chủ đạo, làm chủ - với bộ phận nhân dân không lao động. Cách hiểu này vô tình hay hữu ý chỉ tạo ra lực cản đối với tinh thần đại đoàn kết. Vả lại, trong khái niệm “nhân dân làm chủ”, Đảng ta có tính đến bộ phận người Việt Nam ở nước ngoài, là thành phần không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, từ đó mở rộng tối đa khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao sự đồng thuận xã hội, tạo động lực xã hội mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển.
Khi tập trung giải phóng lực lượng sản xuất, phá bỏ các rào cản kìm hãm nó bằng cách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, từ việc áp dụng cơ chế thị trường đến phát triển nền kinh tế thị trường, rồi xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp. Đó là biểu hiện của sự tôn trọng quy luật khách quan, khi từng bước xác lập quan hệ sản xuất tiên tiến, xã hội chủ nghĩa... Trên đây là những ví dụ nổi bật về những điều chỉnh của Đảng trong nhận thức, tạo nên nhận thức mới, lý luận mới của đổi mới, của chủ nghĩa xã hội Việt Nam phù hợp với quá trình phát triển của thực tiễn đổi mới và hội nhập quốc tế.
Việc phát hiện các mối quan hệ lớn được Đảng ta đặt ra từ Đại hội XI, khi tổng kết 25 năm đổi mới, tiếp đến là 30 năm và 35 năm đổi mới tại các đại hội sau đó. Đã có những nhận thức mới thông qua điều chỉnh cách biểu đạt từng mối quan hệ, như:
+ Quan hệ giữa đổi mới với ổn định và phát triển, trong lô-gic hợp lý và chặt chẽ của nó là quan hệ ổn định với đổi mới và phát triển, trong đó ổn định là tiền đề, đổi mới là phương thức, là con đường và phát triển (phát triển nhanh và bền vững) là mục đích, mục tiêu. Vấn đề quan trọng là phải xác lập sự ổn định tích cực, dựa trên phát triển kinh tế, làm cho nhân dân được thụ hưởng thành quả của đổi mới, để từ đó nhập cuộc và ủng hộ đổi mới. Đây là quá trình đi từ ổn định chính trị đến rộng hơn là ổn định chính trị - xã hội, từ phát triển kinh tế là trung tâm đến phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu thường xuyên(5).
+ Quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường với bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu chính xác, thực tế hơn, là tuân theo các quy luật thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc tuân theo các quy luật thị trường (giá trị, cạnh tranh, tận dụng đòn bẩy khoa học - công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và chủ động hội nhập…) không chỉ trong sự vận hành của nền kinh tế, mà còn cả sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa trong phát triển toàn diện kinh tế - xã hội dưới tác động của quy luật thị trường.
+ Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội được mở rộng tới bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, đáp ứng đúng yêu cầu phát triển bền vững với ba chiều cạnh tương tác nhau: Kinh tế - Xã hội - Môi trường theo khuyến cáo của Liên hợp quốc.
+ Qua thực tiễn, Đảng ta đã bổ sung và điều chỉnh hai mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa Nhà nước và thị trường mở rộng thành quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội (bao gồm cả chủ thể sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp, doanh nhân với chủ thể quản lý là Nhà nước và chủ thể tiêu dùng). Trong tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa, xuất khẩu, nhập khẩu, vấn đề là cần gắn với yêu cầu tăng thị phần của nền kinh tế quốc gia trong nền kinh tế thế giới và nâng cao chất lượng hàng hóa để xác lập và giữ vững thương hiệu.
Đại hội XIII của Đảng phát hiện và bổ sung “mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”(6). Có thể coi quan hệ này là quan hệ chính trị, liên quan trực tiếp tới xây dựng thể chế nhà nước pháp quyền và nền dân chủ, thể hiện tư tưởng dân chủ hóa gắn chặt với pháp chế hóa, xây dựng xã hội trật tự, ổn định, nền nếp, an toàn, phòng tránh hỗn loạn, rối loạn, vô chính phủ, phá vỡ tập trung dân chủ; do đó, chú trọng bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là đòi hỏi của một xã hội văn minh trọng dân và trọng pháp luật với hiệu lực của nhà nước pháp quyền và nền dân chủ.
Một vấn đề nhận thức lý luận quan trọng khác cần được nhấn mạnh, đó là:
Từ thực tiễn đổi mới, Đảng ta đã nhấn mạnh tới dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng hệ thống chính trị thay cho cách hiểu trước đổi mới về “làm chủ tập thể” và “cơ chế làm chủ tập thể”. Thuật ngữ “hệ thống chính trị” lần đầu tiên được đề cập trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (năm 1989) và đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (năm 1991) thì đã bước đầu định hình lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tất yếu phải củng cố cơ sở pháp lý và tạo hành lang pháp luật cho kinh tế thị trường hoạt động; do đó, cần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Trên cơ sở đó, quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và nhân dân theo chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm được xác định thành quan hệ chính trị - pháp lý giữa các chủ thể trong xã hội: Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ. Đây là quan hệ chính trị - pháp lý giữa các chủ thể, đều hướng vào mục tiêu: Đổi mới, phát triển đất nước, xây dựng đi liền với bảo vệ. Đảng lãnh đạo việc thực hiện đường lối chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được Nhà nước (với chức năng quản lý) thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng thành luật pháp và chính sách để nhân dân thực thi vai trò, quyền và nghĩa vụ của người chủ để làm chủ. Mối quan hệ rường cột này được bảo đảm bởi nền tảng tư tưởng, nền tảng pháp lý, sức mạnh kinh tế, sức mạnh đạo đức, luật pháp và văn hóa, theo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và dân vận(7).
Cần nhấn mạnh rằng, đây là quan hệ, thậm chí là quan hệ tổng quát, bao trùm, rộng lớn nhất trong chính trị và trong đời sống xã hội, khẳng định bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa - chế độ do nhân dân làm chủ. Nó không phải là cơ chế làm chủ tập thể như cách hiểu trước đây(8). Cũng trong đổi mới, vào năm 1998, Đảng ta đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW, để xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở; trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành các nghị định về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; trong cơ quan hành chính các cấp… Năm 2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Năm 2013, nước ta đã có Hiến pháp mới, kế thừa và phát triển mới các Hiến pháp trong lịch sử lập hiến của nước ta, từ năm 1946 tới nay. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 gồm các khoản 1, 2 và 3 bên cạnh việc khẳng định vai trò lãnh đạo, địa vị cầm quyền của Đảng một cách hợp hiến, hợp pháp, chính danh và chính đáng, đã xác định, với những chế định pháp lý rõ ràng về việc Đảng “chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Đó là sự ràng buộc pháp lý, thẩm quyền và trách nhiệm. Đó cũng là đòi hỏi cần thiết về một cơ chế bảo hiến, chế tài xử lý vi hiến mà Đảng - Nhà nước - xã hội tự ý thức, tự chịu trách nhiệm. Đó cũng là cơ sở pháp lý quy định về kiểm soát quyền lực, ngăn chặn sự vi phạm, tha hóa quyền lực có thể xảy ra.
Chúng ta cũng đã có Luật Trưng cầu ý dân. Vấn đề đặt ra là làm sao để luật đó đi vào cuộc sống, dựa trên ý chí, sức mạnh của nhân dân, xác lập cơ chế và điều kiện để nhân dân thực sự là chủ thể xã hội có quyền lực cao nhất tham gia vào hoạt động giám sát, kiểm soát quyền lực. Bởi lẽ, quyền lực mà nhân dân trao cho, nhân dân ủy thác thì nhân dân có quyền, đồng thời có nghĩa vụ, trách nhiệm kiểm soát quyền lực đó.
Những văn bản pháp luật nói trên đã hoàn chỉnh quyền của dân: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(9).
Trên đây là minh chứng về quá trình nhận thức lý luận của Đảng để định hình hệ thống lý luận về đổi mới, về chủ nghĩa xã hội. Mười mối quan hệ được nêu lên “là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta”(10). Đảng cũng hình dung, những mối quan hệ lớn đó “cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn”(11). Đảng cũng lưu ý rằng, “phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả. Tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện”(12).
Vì sao mười mối quan hệ nêu trên là những mối quan hệ lớn và cần được tiếp tục bổ sung phát triển? Vì sao trong nhận thức và hành động tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện? Đó cũng là điều cần phải làm rõ để thống nhất trong nhận thức và chỉ đạo thực hiện.
- Là những mối quan hệ lớn bởi tầm tác động, chi phối, ảnh hưởng của những quan hệ này là ở phạm vi rộng lớn, ở cấp độ vĩ mô, chiến lược, thâm nhập vào các lĩnh vực chủ yếu trong xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, môi trường, tác động từ tổ chức và con người tới chủ trương, đường lối, chính sách, việc thiết kế chương trình hành động vì mục tiêu phát triển.
- Là những mối quan hệ lớn bởi những mối quan hệ này dung nạp trong bản thân nó hết sức phong phú, đa dạng các mối quan hệ khác trong đời sống xã hội.
Từ tất cả những điều đó, Đảng ta khẳng định những mối quan hệ lớn là những vấn đề cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng. Đặc biệt là, những mối quan hệ lớn đó phản ánh quy luật có tính biện chứng. Là quy luật bởi nó ở độ khái quát rất cao, có tính tất yếu, phổ biến.
Sự nhấn mạnh của Đảng, “tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện” là để phòng tránh tư duy siêu hình (không tính đến quan điểm hệ thống - chỉnh thể, xa rời hoàn cảnh lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển), nhằm tránh phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí, làm trái quy luật khách quan (vốn rất dễ mắc phải).
Đáng lưu ý là, trong mười mối quan hệ lớn, có những “quan hệ đôi” (hai yếu tố) mà cũng có “quan hệ ba” (ví dụ: “ổn định - đổi mới - phát triển”, “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ”, “thực hành dân chủ - tăng cường pháp chế - bảo đảm kỷ cương xã hội”, “tăng trưởng kinh tế - tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên”), đó là những quan hệ “đa lớp, đa tầng”. Nhận biết đặc điểm này để chú trọng vào tính đa dạng, đa lĩnh vực, phức hợp - tổng hợp của đối tượng. Khi giải quyết các mối quan hệ trong hoạt động thực tiễn, cần chú trọng huy động các nguồn lực, các điều kiện sao cho hợp lý và hiệu quả nhất.
Với tinh thần tiếp tục đổi mới sáng tạo, chú trọng đổi mới thể chế phát triển, Đại hội XIII của Đảng nêu cao khát vọng Việt Nam, khát vọng phát triển bền vững, hiện đại hóa đất nước, đó cũng là khát vọng Hồ Chí Minh và ước vọng của toàn dân tộc, của nhân dân ta. Việt Nam trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI (năm 2045), đem lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân ta. Sinh thời, ngay từ những ngày đầu xây dựng chính thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh kỳ vọng dân tộc Việt Nam nhất định phải trở thành một dân tộc thông thái, xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam (như Người nói vào những năm 60 của thế kỷ XX) là xây dựng một xã hội văn hóa cao. Khát vọng ấy phải được thực hiện bằng năng lực, thực lực của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, “sánh vai được cùng các cường quốc năm châu”. Khát vọng ấy phải trở thành hiện thực gần và triển vọng xa với hệ giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Đây là cốt lõi, là linh hồn hệ giá trị quốc gia, chứa đựng giá trị văn hóa - sức mạnh nội sinh của phát triển và tiến đến phát triển bền vững, làm cho “dân tộc cường thịnh, trường tồn”(13) bằng tài trí sáng tạo, bản lĩnh sáng tạo của con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh./.
-------------------
(1) Trên thế giới đang tồn tại các mô hình kinh tế thị trường khác nhau: Kinh tế thị trường tự do (Mỹ và Tây Âu), kinh tế thị trường xã hội (Cộng hòa Liên bang Đức và các nước Bắc Âu), kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam...
(2) Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội, đó là đặc thù mà Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đây là đặc điểm to nhất trong thời kỳ quá độ; ngoài ra, còn có những đặc thù khác (đất nước tạm thời bị chia cắt từ năm 1954 - 1975), có chiến tranh ác liệt, kéo dài nhưng vẫn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm hậu thuẫn cho cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam
(3), (4) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 39
(5), (6) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 33 - 34, 39
(7), (8) Xem: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 174 - 189
(9), (10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 27, 39
(11), (12), (13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 39, 39, 46
GS, TS. HOÀNG CHÍ BẢO
Chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
Nguồn Tạp chí Cộng sản