Đổi mới hướng tiếp cận trong nghiên cứu lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

Trong nghiên cứu lý luận nói chung, việc xác định hướng tiếp cận là bước đi quan trọng tiền đề, bảo đảm các hoạt động nghiên cứu đúng hướng, trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, giá trị của sản phẩm lý luận. Nghiên cứu lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cũng không ngoại lệ. Bài viết này tập trung nghiên cứu về việc đổi mới hướng tiếp cận về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên các phương diện nhận thức, hướng tiếp cận mới và một số vấn đề đặt ra trong việc đổi mới hướng tiếp cận.

1. Hướng tiếp cận trong nghiên cứu lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

Trong nghiên cứu lý luận, việc xác định hướng tiếp cận là bước đi quan trọng tiền đề, bảo đảm các hoạt động nghiên cứu đúng hướng, trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, giá trị của sản phẩm lý luận. Đồng thời, nghiên cứu lý luận phải hướng tới cả 3 cấp độ, đó là: (1) Nghiên cứu cơ bản, hiểu một cách tương đối và tổng quát là hoạt động của các chủ thể nhằm xây dựng hệ thống lý thuyết phản ánh bản chất, quy luật, quan hệ, thuộc tính của đối tượng nghiên cứu. (2) Nghiên cứu ứng dụng là việc nghiên cứu, sử dụng tri thức tổng hợp, nhất là tri thức rút ra từ kết quả nghiên cứu cơ bản vào các hoạt động cải tạo thực tiễn, giải quyết các vấn đề xảy ra trong thực tiễn, một lĩnh vực, một nhóm vấn đề có chung tính chất. (3) Nghiên cứu thực nghiệm là hoạt động nghiên cứu lý luận dựa trên kết quả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu sự vật, sự việc, hiện tượng cụ thể trong các quá trình lịch sử, tự nhiên, xã hội để xác lập lý thuyết xử lý vấn đề trong thực tiễn.

Là một bộ phận của nghiên cứu lý luận nói chung, nghiên cứu lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia (ANQG), bảo đảm trật tự, an toàn xã hội (TTATXH) cũng không nằm ngoài quy luật này và tiến hành theo các cấp độ như đã đề cập ở trên. Bỏ qua tính hàn lâm, học thuật của thuật ngữ, có thể hiểu “nghiên cứu lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH” là hoạt động nghiên cứu để xác lập hệ thống các luận cứ khoa học, lý luận nhằm cung cấp cho các chủ thể thực tiễn sự định hướng, chỉ dẫn trong bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH. Trong đó, nghiên cơ bản về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH đặt trong mối quan hệ với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, đối ngoại ở mức độ tổng quát nhất nhằm xác lập nhận thức về bản chất, quy luật trong bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH. Đó là các vấn đề như: quy luật phát sinh, phát triển và cơ chế tác động của các yếu tố, nguy cơ đe dọa ANQG, TTATXH; nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật; quy luật về phương thức, thủ đoạn hoạt động xâm phạm ANQG, TTATXH của các thế lực thù địch, các loại tội phạm; mục tiêu, yêu cầu, phương châm, nguyên tắc trong bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH… Nghiên cứu ứng dụng (chuyên ngành) được phát triển trên cơ sở nghiên cứu cơ bản và thực tiễn nhằm xác lập nhận thức lý luận để định hướng giải pháp, biện pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH theo lĩnh vực, nhóm đối tượng. Sự phân biệt giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng chỉ mang tính chất tương đối, vì đây là hai mặt thống nhất của hoạt động nghiên cứu có quan hệ mật thiết, hữu cơ, biện chứng với nhau. Kết quả nghiên cơ bản là nền tảng, cơ sở để thông qua nghiên cứu ứng dụng chuyển hóa tri thức đã được xác lập vào thực tiễn bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH. Nếu không có nghiên cứu cơ bản, kết quả nghiên cứu ứng dụng sẽ không có cơ sở khoa học, thuyết phục; ngược lại, nếu không có nghiên cứu ứng dụng thì kết quả nghiên cứu cơ bản sẽ chỉ là lý thuyết suông. Nghiên cứu tác chiến trong bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH được tiến hành trên cơ sở cụ thể hóa lý luận nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và hoạt động thực tiễn để đưa ra chỉ dẫn cho các chủ thể nhằm giải quyết trực tiếp vụ, việc, tình huống, vấn đề cụ thể đã xuất hiện trong thực tế. Tự nó, lý luận tác chiến được kiểm nghiệm, tổng kết qua thực tiễn sẽ góp phần phát triển, hoàn thiện lý luận cơ bản, lý luận chuyên ngành.

Có thể khẳng định rằng, sự hình thành của hệ thống lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH ở nước ta xuất phát từ thực tiễn, được tư duy trừu tượng hóa, khái quát hóa, kiểm nghiệm bằng thước đo thực tiễn và không ngừng được bổ sung, phát triển. Đến nay, hệ thống lý luận đó đã được xây dựng tương đối toàn diện theo mô hình và các cấp độ nêu trên. Trong một số lĩnh vực lý luận chuyên ngành, lý luận tác chiến đã đạt đến trình độ “nghệ thuật”, đóng góp hết sức quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH thời gian qua.

Tuy nhiên, ở mức độ nhất định, lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH ở nước ta dường như có “độ trễ” và những “khoảng trống”. Trong đó, nguyên nhân đầu tiên thuộc về hạn chế của công tác nghiên cứu, phát triển lý luận trong lĩnh vực này. Nguyên nhân của nguyên nhân trên có nhiều, trong đó, việc chưa toàn diện trong xác định hướng tiếp cận nghiên cứu lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH; nghiên cứu cơ bản về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH chưa được quan tâm, đầu tư thỏa đáng đặt trong mối quan hệ với nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu tác chiến là những nguyên nhân cơ bản. Đất nước ta sau hơn 35 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu mang to lớn, mang tầm vóc và ý nghĩa lịch sử, tạo thế, tạo lực để củng cố, tăng cường tiềm lực, sức mạnh bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH, tạo nền tảng vững chắc để Nhà nước và nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng vững bước trên con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng đã xuất hiện những nguy cơ, thách thức mới từ bên trong, bên ngoài. Vấn đề có tính quy luật hiện nay là, mọi vấn đề phát sinh trong xã hội đều có khả năng tác động, chuyển hóa thành ANQG, TTATXH theo những cơ chế, cách thức, phạm vi, mức độ, cường độ, hậu quả, hệ lụy khác nhau.

Bên cạnh đó, sự đổi mới nhận thức, tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc nói chung, bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH nói riêng, đặc biệt là đổi mới nhận thức, tư duy “bạn - thù” thành “đối tác - đối tượng” đòi hỏi hướng tiếp cận toàn diện trong nghiên cứu lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH. Việt Nam đang ngày càng tham gia sâu rộng và trở thành “mắt xích” quan trọng trong dòng chảy toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập kinh tế quốc tế; khi mà lợi ích quốc gia - dân tộc luôn được đặt ở vị trí “trên hết”, “tối thượng” trong quan hệ quốc tế và có sự đan xen, ràng buộc, ảnh hưởng lẫn nhau mạnh mẽ, vấn đề đối tác - đối tượng đã và đang dần trở thành vấn đề trung tâm chi phối hoạt động bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH. ANQG, TTATXH hiện nay mang tính toàn diện, đa chiều. Sự phân định giữa ANQG và TTATXH ngày càng mang tính tương đối. Cuộc đấu tranh bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH không chỉ diễn ra trên không gian chủ quyền lãnh thổ quốc gia mà còn vượt ra khỏi phạm vi biên giới lãnh thổ hành chính, trên không gian mạng, ở bất kể đâu có lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam và cả trong nội bộ, trong “lòng dân”. Tính phổ quát, nội hàm lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH theo đó đã mở rộng hơn; do đó, nếu không kịp thời đổi mới, điều chỉnh hướng tiếp cận trong hoạt động nghiên cứu lý luận sẽ tiếp tục xuất hiện những “khoảng trống” và những mảng lý luận “đi sau” thực tiễn về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH.

Với cách tiếp cận như vậy, việc điều chỉnh hướng tiếp cận nghiên cứu lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH là cần thiết, cấp bách. Xin trao đổi, gợi mở rõ hơn về nội dung này như sau: trước hết, cần tiếp cận lý luận, thực tiễn chung để nghiên cứu, phát triển lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH dưới cả các góc độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, đối ngoại. Theo đó:

Về kinh tế, nghiên cứu thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bản chất, đặc trưng, các bộ phận cấu thành, cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những vấn đề đặt ra đối với ANQG, TTATXH; vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế; quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế; mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường - xã hội trong cấu trúc kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế; vai trò làm chủ của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong phát triển kinh tế… Nhận diện những tác động tiêu cực, bất lợi từ quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế, nhất là tự do hóa kinh tế, kinh tế tư bản, tư nhân chi phối, tạo thách thức tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Nghiên cứu quá trình Việt Nam tham gia và thực thi các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới (I) để nhận diện kịp thời, đầy đủ, toàn diện những thời cơ, thuận lợi cũng như thách thức đối với ANQG, nhất là thách thức về chính sách kinh tế, quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, môi trường, công nghệ, kỹ thuật, về thể chế, chính sách, pháp luật bảo đảm vừa phù hợp với các FTA, vừa phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam; vừa đảm bảo lợi ích doanh nghiệp, vừa đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc, vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nghiên cứu bản chất, đặc trưng của kinh tế tư bản, tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những vấn đề đặt ra đối với ANQG, TTATXH. Về mặt xã hội, kinh tế tư bản, tư nhân phát triển hình thành cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội nhất định, từ đó tất yếu hình thành ý thức xã hội tương ứng. Trong khi đó, cơ cấu xã hội nòng cốt ở nước ta là giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, nay một bộ phận các nhà tư bản, tư sản, giới chủ ngày càng phát triển đông đảo về số lượng, nắm giữ nhiều tư liệu sản xuất, từ đó sẽ có ảnh hưởng xã hội ngày càng cao, chi phối người lao động, công nhân, trí thức, giới trẻ tất yếu làm xuất hiện những mầm mống, tiền đề tư tưởng đối lập với nền tảng tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này, phải chăng cũng cần được quan tâm nhiều hơn trong nghiên cứu lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH thời gian tới.

Về chính trị, cần nghiên cứu cơ bản tổng thể các yếu tố chi phối sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ chính trị ở Việt Nam. Trong đó, nhóm các yếu tố chi phối thuộc cấu trúc của chế độ chính trị, như: mối quan hệ giữa chế độ chính trị với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; cơ chế, quá trình vận hành giữa các thiết chế của hệ thống chính trị: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức và hoạt động của bộ máy đảng và bộ máy nhà nước. Nhóm các yếu tố chi phối bên trong của chế độ chính trị, như: việc thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa; yếu kém, bất cập trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết các mối quan hệ lớn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhóm các yếu tố chi phối từ bên ngoài hệ thống chính trị: sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, chống đối; tình hình chính trị khu vực, thế giới diễn biến phức tạp; mặt trái của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, quan tâm nghiên cứu, phân tích, dự báo sát tình hình chính trị, biến động của cục diện thế giới, khu vực; sự điều chỉnh chiến lược, chính sách của các nước lớn, các vấn đề đối tượng - đối tác tác động đến ANQG Việt Nam; các xu hướng chính trị đương đại, nhất là ở các nước xã hội chủ nghĩa; biểu hiện mới của mâu thuẫn có tính chất xuyên suốt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội; các quy luật và tính quy luật chính trị - xã hội của quá trình hình thành, phát triển hình thái kinh tế, xã hội cộng sản chủ nghĩa…

Về tư tưởng - văn hóa, nghiên cứu các tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới, nhất là học thuyết kinh tế, chính trị lớn đang chi phối sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia trên thế giới, các nước lớn, các trung tâm quyền lực, khu vực Châu Á Thái Bình Dương và ASEAN trên quan điểm khách quan, biện chứng và tiếp thu những giá trị tiến bộ; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội và các tư tưởng thù địch dưới mọi màu sắc. Nghiên cứu các vấn đề về tư tưởng - văn hóa để cung cấp luận cứ khoa học xác đáng xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người và những yếu tố tác động tiêu cực làm cản trở, kìm hãm, xói mòn các giá trị đó, như: (i) sự gia tăng âm mưu, hoạt động chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa; (ii) sự thâm nhập, tác động của các trào lưu tư tưởng tư sản vào trong nước; (iii) những biến động về chính trị, kinh tế ở các nước trong khu vực và thế giới tác động, ảnh hưởng đến tư tưởng - văn hóa; (iiii) mặt trái của cơ chế thị trường, xu hướng thương mại hóa, tư nhân hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt động tư tưởng - văn hóa kéo theo những thách thức trong xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế. Nhận diện các xung đột tư tưởng - văn hóa và chủ động có giải pháp phòng ngừa, giải quyết, không để các thế lực thù địch lợi dụng tiến hành các hoạt động xâm phạm ANQG, TTATXH.

Về con người, chưa bao giờ vấn đề an ninh con người nhận được sự quan tâm của nhà nước, các chủ thể quan hệ quốc tế, tổ chức, cá nhân và cũng chịu tác động bởi nhiều yếu tố như hiện nay. Ở nước ta, bảo vệ an ninh con người vừa là mục tiêu, động lực cho ổn định chính trị - xã hội, phát triển bền vững đất nước. Trong nghiên cứu lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH nói chung, bảo vệ an ninh con người nói riêng, cần nghiên cứu toàn diện quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và các cơ chế bảo đảm quyền con người trên các phương diện chính trị, pháp lý, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó, chú trọng nghiên cứu cơ chế bảo vệ quyền con người đối với nhóm đặc thù, nhóm yếu thế trong xã hội và trong những tình huống đặc biệt, như: thảm họa tự nhiên, thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường... Gắn kết nghiên cứu lý luận về bảo vệ quyền con người với thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm Đảng về phát huy vai trò Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, như: cơ chế bảo đảm “dân làm chủ”, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; cơ chế tạo động lực thúc đẩy, phát triển con người Việt Nam thực sự trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng bộ tiêu chí và giải pháp bảo đảm an sinh, an toàn. Nghiên cứu một cách khách quan, đúng mực những điểm “hạn chế” của con người Việt Nam với vai trò là yếu tố, điều kiện kìm hãm sự phát triển của xã hội, làm phát sinh, phát triển tội phạm, vi phạm pháp luật mà các thế lực thù địch, tội phạm triệt để lợi dụng tiến hành các hoạt động xâm phạm ANQG, TTATXH.

Về xã hội, nghiên cứu, luận giải những hiện tượng, quá trình xã hội, biến đổi xã hội để thấy được động cơ, nguyên nhân, mức độ tác động của nó đối với ANQG, TTATXH. Nghiên cứu các quy luật, tính quy luật đặc thù chi phối các quan hệ quyền lực giữa các chủ thể trong xã hội, nghiên cứu các hành vi chính trị của những cá nhân nắm quyền lực, được trao quyền lực trong quá trình thực thi quyền lực chính trị hướng tới kiểm soát quyền lực, phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi lạm quyền, lộng quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác; nghiên cứu nhu cầu và lợi ích của các nhóm xã hội, tâm thế xã hội (nhất là tâm thế chính trị), dư luận xã hội; tâm lý, văn hóa lãnh đạo, quản lý trong hoạt động bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH... Nắm vững các quy luật vận động, phát triển của xã hội Việt Nam, các cơ chế quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; nhận diện mâu thuẫn, xung đột xã hội và phòng ngừa, giải quyết hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội; các yếu tố, ảnh hưởng của vấn đề “xã hội dân sự” đối với nước ta hiện nay.

Về quốc phòng, quân sự, nghiên cứu các yếu tố nền thế trận quốc phòng, quân sự (cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội); tình hình mục tiêu, địa bàn trọng điểm, chiến lược về quốc phòng, quân sự, đặc biệt là các cơ sở quốc phòng, quân sự, nơi bố trí phương tiện, khí tài và nhân lực mục tiêu tìm hiểu, thu thập thông tin, tài liệu của các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các đối tượng đấu tranh của ta; việc bố trí các thế trận quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, nền quốc phòng toàn dân; bí mật nhà nước về quốc phòng, quân sự, như: hệ thống phòng thủ, hệ thống các trạm rada...; tình hình chính trị nội bộ các đơn vị, lực lượng vũ trang nhân dân... làm cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện lý luận về bảo vệ an ninh quốc phòng, quân sự trong tình hình mới.

Về tôn giáo, dân tộc, nhận diện những vấn đề mới về tôn giáo, dân tộc dưới các góc độ kinh tế, chính trị, đối ngoại, văn hóa, xã hội và những vấn đề đặt ra đối với nhiệm vụ bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH. Về dân tộc, nổi lên là tình trạng phai nhạt, mai một bản sắc văn hóa, truyền thống, thậm chí bị đồng hóa trước những tác động từ bên ngoài; việc phát triển kinh tế tư bản, tư nhân chỉ chú trọng lợi thế so sánh, lợi ích kinh tế, dẫn đến nguy cơ mất cân đối đầu tư giữa các vùng đồng bằng, thành thị với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, làm gia tăng khoảng cách giàu -  nghèo, trình độ dân trí giữa các vùng. Tình trạng di cư tự do của đồng bào dân tộc thiểu số tạo lỗ hổng về dân cư tại các vùng phên dậu của Tổ quốc đặt ra nhiều vấn đề về an ninh con người, an ninh biên giới, lãnh thổ. Về tôn giáo, một số tôn giáo phát triển phức tạp, tiềm ẩn mâu thuẫn, xung đột; xuất hiện một số đạo lạ hoạt động truyền bá giáo lý, thờ cúng gắn với các vấn chính trị nhạy cảm, phê phán Đảng, Nhà nước, gây rối trật tự xã hội. Tình trạng một số đối tượng, phần tử xấu đội lốt tôn giáo xuyên tạc chính sách tôn giáo, dân tộc của Đảng, Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng nhưng chưa có giải pháp phòng ngừa, giải quyết triệt để.

Về mối quan hệ giữa ANQG với các lĩnh vực và giữa các yếu tố cấu thành nội hàm ANQG, bảo vệ ANQG. Cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng rõ lý luận về ANQG trong sự vận động của kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, đối ngoại; kết hợp chặt chẽ giữa bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, đối ngoại và ngược lại; mối liên hệ, chuyển hóa giữa các yếu tố an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, giữa TTATXH ANQG; đối tượng - đối tác; bên trong - bên ngoài - trên không gian mạng; giữa các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược, trọng điểm về ANQG, TTATXH.

2. Một số vấn đề đặt ra trong đổi mới hướng tiếp cận trong nghiên cứu lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

Từ kết quả nghiên cứu cơ bản về các lĩnh vực nêu trên, dưới góc nhìn của khoa học an ninh tiếp tục bổ sung, phát triển các luận cứ, hình thành lý luận cơ bản, lý luận chuyên ngành, lý luận tác chiến về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH cho phù hợp. Vì trên thực tế có nhiều nội dung trong hệ thống lý luận này đã “lạc hậu” hoặc không đảm nhận được vai trò định hướng, dẫn dắt thực tiễn đã có nhiều thay đổi.

Bên cạnh đó, quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, an ninh, nghệ thuật quân sự, nghệ thuật bảo vệ ANQG, an ninh xã hội trong tình hình mới” (II), trong nghiên cứu lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH, cần chú ý một số vấn đề sau:

Một là, điều chỉnh, phát triển toàn diện hơn hướng nghiên cứu lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH: (1) Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cơ bản để kịp thời bổ sung, xác lập những luận cứ lý luận, thực tiễn mới làm cơ sở cho nghiên cứu lý luận chuyên ngành, lý luận tác chiến. Ngược lại, thông qua tổng kết việc ứng dụng lý luận tác chiến để bổ sung, phát triển lý luận chuyên ngành, lý luận cơ bản. Hướng tiếp cận này sẽ bảo đảm kết hợp chặt chẽ hơn mối quan hệ giữa các cấp độ nghiên cứu, kiểm nghiệm lý luận thông qua thực tiễn, từ thực tiễn hoàn thiện lý luận. (2) Từ nghiên cứu các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, đối ngoại, phát hiện những vấn đề mới, có tính quy luật, có ý nghĩa đối với công tác bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH. Hướng đi này sẽ khắc phục được sự tách rời nghiên cứu lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH với các quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, đối ngoại. Nó sẽ giúp cho lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH đồng đều ở tất cả các cấp độ và có tính ứng dụng cao hơn. (3) Tập hợp, nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố trong Công an nhân dân cũng như trong các lĩnh vực khác để sử dụng trong hoàn thiện lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH. Hiện nay, các công trình nghiên cứu khá nhiều, nhưng việc ứng dụng kết quả nghiên cứu để hoàn thiện lý luận chưa thực sự hiệu quả.

Hai là, tập trung nghiên cứu, xác lập những luận cứ, chỉ dẫn lý luận để quán triệt các quan điểm, phương châm của Đảng về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH, nhất là các quan điểm, phương châm được đề cập trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và các nghị quyết chuyên đề, chỉ thị khác về ANQG, TTATXH. Trong đó, trước mắt tập trung nghiên cứu, luận giải, thể chế hóa, xác lập lý luận để quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả các quan điểm, phương châm như: (1) Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ (dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng); (2) kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và lợi ích quốc gia - dân tộc; (3) phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm an ninh, quốc phòng là trọng yếu, thường xuyên; (4) “giữ vững bên trong là chính” trong bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH; (5) giải quyết các vụ, việc phức tạp về an ninh, trật tự từ cơ sở, dưới sự chỉ huy, chỉ đạo của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương theo phương châm 4 tại chỗ (chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ và hậu cần tại chỗ). (6) kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại và thực hiện nhiệm vụ quốc phòng với bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH…

Ba là, đổi mới tổ chức, hoạt động, công tác quản lý nghiên cứu lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH theo hướng gắn kết chặt chẽ hơn giữa các cơ quan, nhà nghiên cứu trong Công an nhân dân với các trung tâm, nhà nghiên cứu ngoài Công an nhân dân gắn với các lĩnh vực cụ thể. Bên cạnh đó, đổi mới hoạt động nghiên cứu khoa học theo hướng chặt chẽ, thiết thực, hiệu quả hơn từ lựa chọn vấn đề nghiên cứu, trong tổ chức nghiên cứu, nghiệm thu và ứng dụng sản phẩm. Khuyến khích nghiên cứu những vấn đề mới, những vấn đề phức tạp nảy sinh trong lý luận và thực tiễn bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH. Hình thành các chương trình nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu tác chiến ở phạm vi tổng thể, theo lĩnh vực, theo địa bàn, nhóm đối tượng. Từ kết quả nghiên cứu, xây dựng, hình thành hệ thống lý luận, nghệ thuật bảo vệ ANQG, TTATXH trong tình hình mới. Cùng với đó, củng cố đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận trong Công an nhân dân, xây dựng đội ngũ cộng tác viên ngoài Công an nhân dân và các cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm để tạo động lực làm việc cho đội ngũ cán bộ này. Thực hiện tốt hơn hoạt động hợp tác quốc tế trong nghiên cứu lý luận về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH, nhất là với các quốc gia tương đồng với Việt Nam./.

                                                   

Trung tướng, PGS.TS Trần Vi Dân

Giám đốc Học viện Chính trị Công an nhân dân

                                                     Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương

 

(I) Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP ký kết ngày 08/3/2018, chính thức có hiệu lực từ ngày 14/01/2019 (gồm có 11 nước thành viên là: Ốtxtrâylia, Brunây, Canađa, Chilê, Nhật Bản, Malaixia, Mêhicô, Niudilân, Pêru, Xinhgapo và Việt Nam). Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) - EVFTA ký kết ngày 30/6/2019 và có hiệu lực từ 01/8/2020 (gồm Việt Nam và 27 quốc gia EU)...

(II) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, T.1, tr.159, Hà Nội.

 

 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Xem nhiều nhất

Liên kết website