PGS.TS, Trung tướng, Nhà giáo ưu tú Phan Xuân Tuy,
Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Học viện Chính trị CAND
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trong vai trò của văn hóa, Người khẳng định, văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội, là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Do đó, văn hóa đứng ngang hàng với các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội và có mối quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”[1]. Văn hóa không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị và ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm trong văn hóa. Người nêu rõ yêu cầu “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”([2]); văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị, tức là tham gia vào các hoạt động cách mạng, tham gia kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Văn hóa không chỉ là hồn cốt của dân tộc mà còn là bản lĩnh, khí phách, trí tuệ, sức sáng tạo và sức sống mãnh liệt của dân tộc đó, đã được hun đúc qua truyền thống hàng nghìn năm lịch sử.
Là một bộ phận, một biểu hiện đặc biệt của văn hóa nhân loại và văn hóa của quốc gia - dân tộc, văn hóa chính trị đóng vai trò là nhân tố định hướng, cho thấy những hoạch định về mục tiêu phát triển dân tộc và hoạch định phương thức hiện thực hóa những mục tiêu đó. Đó là chiến lược xây dựng diện mạo quốc gia dân tộc, hệ thống giá trị, tư tưởng và hành vi điển hình cùng với việc hình thành hệ thống các tổ chức – hệ thống chính trị với tư cách là hệ thống công cụ nhằm thực hiện thành công các mục tiêu định trước. Có thể nói, văn hóa chính trị là sự kết tinh những giá trị chính trị, là sự thẩm thấu chuyển hóa lẫn nhau giữa văn hóa với chính trị, chính trị với văn hóa.
Văn hóa chính trị Công an nhân dân (CAND) là một bộ phận của văn hóa chính trị, được hợp thành bởi hệ tư tưởng, lý tưởng, niềm tin, tri thức, hoạt động và năng lực chính trị, có ảnh hưởng đến thái độ, hành vi chính trị của một cá nhân hay một tập thể đơn vị, góp phần quyết định chất lượng, hiệu quả công tác công an. Như vậy, văn hóa chính trị CAND có thể được tiếp cận theo các góc độ khác nhau, song không thể thiếu những yếu tố cốt lõi bên trong làm nên nội hàm của nó. Trong số các yếu tố cốt lõi ấy có thể kể đến: Hệ tư tưởng chính trị CAND; tri thức chính trị CAND; lý tưởng và niềm tin chính trị CAND; năng lực hành động chính trị CAND. Các yếu tố tiêu biểu và cốt lõi này gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau kết thành phẩm chất, nhân cách của người công an cách mạng và sức mạnh, bản lĩnh, trí tuệ của lực lượng CAND.
Thứ nhất, Hệ tư tưởng chính trị CAND: Hệ tư tưởng chính trị là kim chỉ nam soi đường cho quá trình đấu tranh của một giai cấp. Hệ tư tưởng chính trị khẳng định bản chất tiến bộ hay thoái bộ của một chế độ chính trị xã hội đồng thời chỉ rõ mục tiêu, phương pháp đấu tranh giành và giữ chính quyền; xác định mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội; xác định nội dung, phương thức lãnh đạo, quản lý xã hội; chi phối và quyết định tính chất, nội dung và phương hướng xây dựng văn hóa chính trị. Hệ tư tưởng chính trị Công an nhân dân được xây dựng trên nền tảng hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, từ đó, quy định trực tiếp đường lối, chính sách, nhiệm vụ chính trị của Công an nhân dân trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Thứ hai, Tri thức chính trị CAND: Tri thức chính trị được coi là hạt nhân của văn hóa chính trị, là hệ thống những kiến thức lý luận và thực tiễn, từ lịch sử, văn hóa, nghệ thuật quân sự đến địa - chính trị, địa - kinh tế, tri thức về tổ chức, tập hợp, đoàn kết, quản trị, lãnh đạo, điều hành hoạt động chính trị. Với tư cách là lực lượng vũ trang cách mạng, tri thức chính trị CAND cũng bao hàm hệ thống tri thức chính trị nói chung, đồng thời với tư cách là lực lượng tiên phong mang trên mình nhiệm vụ vụ chính trị trọng yếu, hệ thống tri thức chính trị của lực lượng CAND không chỉ là hệ thống tri thức lý luận trên nền tảng cơ sở lý luận của Đảng mà còn có hệ thống tri thức kinh nghiệm được hình thành trong thực tiễn công tác và chiến đấu, những bài học trong truyền thống lịch sử của lực lượng CAND anh hùng đã được đúc kết từ quá trình “tắm mình” trong thực tiễn.
Ngày nay, trong bối cảnh thế giới cạnh tranh khốc liệt, đầy bất đồng, mâu thuẫn và những biến động “bất định”, “bất ổn”, “khó lường”, những thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, vai trò của tri thức chính trị CAND, độ nhạy bén và sự mềm dẻo chính trị của CAND là nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả, mức độ thành công của các chiến lược, sách lược trong tiến trình phát triển đất nước. Điều đó đòi hỏi lực lượng CAND phải có nền tảng tri thức chính trị vững chắc, xứng tầm, có sự tinh tường, nhạy bén, linh hoạt. Do đó, việc nghiên cứu, trang bị tri thức chính trị, giáo dục văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ CAND là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Bối cảnh, yêu cầu mới ngày nay đã và đang đặt ra cho công tác nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị trong CAND đặt ra những yêu cầu ngày càng cao kể cả về phương thức, nội dung và cách thức tổ chức, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn công tác, chiến đấu.
Thứ ba, Lý tưởng và niềm tin chính trị CAND: Từ hệ tư tưởng chính trị CAND cách mạng, từ hệ thống tri thức chính trị CAND khoa học, hiện đại và tự thực tiễn bảo vệ, xây dựng, phát triển đất nước hình thành lý tưởng và niềm tin chính trị CAND. Lý tưởng chính trị CAND không nằm ngoài mục tiêu, lý tưởng của dân tộc: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước cường thịnh, dân chủ, nhân văn, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Song hành với lý tưởng là niềm tin chính trị CAND, niềm tin được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn, sâu sắc về lý tưởng chính trị, do vậy, niềm tin ấy phải luôn ổn định, vững chắc và kiên cố, sãn sàng “vì nước quên thân, vì dân phục phụ”. Niềm tin chính trị là nhân tố cốt lõi, quyết định sự ổn định, vững vàng về tư tưởng chính trị của cán bộ, chiến sĩ. Trong niềm tin chính trị còn bao hàm cả tình cảm chính trị, đó chính là sức mạnh bên trong, là động lực để hành động thực thi những nhiệm vụ cao đẹp, dù có thể hi sinh bản thân mình. Ở chiều ngược lại, tình cảm chính trị là cơ sở hình thành và phát triển niềm tin chính trị. Niềm tin chính trị CAND được biểu hiện ở sự tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quyết tâm và kiên định con đường cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn. Phẩm chất chính trị của người cán bộ, đảng viên nói chung, người cán bộ chiến sĩ CAND nói riêng được thể hiện tập trung nhất ở lòng yêu nước, lòng trung thành, niềm tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang dùng đủ mọi thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc, sai trái hòng làm lung lay niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng. Trong khi đó, lại có một bộ phận cán bộ xa rời lập trường chính trị, không ít đối tượng “trở cờ” quay lưng lại với lịch sử, với cách mạng, đi ngược lại với lợi ích dân tộc. Trước những luận điểm sai trái, thù địch ấy, người cán bộ, chiến sĩ CAND cần phải có trình độ lý luận chính trị vững vàng, nhãn quan chính trị sáng suốt bảo đảm giữ vững niềm tin tưởng, kiên định lập trường chính trị. Từ đó kiên quyết phê phán, đấu tranh, để góp phần bảo vệ, giữ vững niềm tin chính trị, đồng thời thực hiện trách nhiệm nêu gương, định hướng và lan tỏa những quan điểm, lập trường chính trị đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta tới đông đảo quần chúng nhân dân.
Thứ tư, năng lực hành động chính trị CAND: Năng lực hành động chính trị CAND là loại năng lực đặc biệt, là khả năng thực hiện các nhiệm vụ chính trị của lực lượng CAND. Năng lực hành động chính trị là sự cụ thể hóa, sự thể hiện ra bên ngoài của, hệ tư tưởng, tri thức, lý tưởng, niềm tin, tình cảm chính trị. Để có năng lực hành động chính trị, trước hết cán bộ, chiến sĩ cần có năng lực lý luận chính trị, mà cụ thể là khả năng nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, đồng thời cần phải tinh thông về nghiệp vụ, pháp luật trong thực tiễn công tác và chiến đấu. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Đổi mới căn bản chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo phương châm khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại; đưa việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược đi vào nền nếp, nhất quán từ trung ương đến cơ sở, phù hợp với từng đối tượng, chú trọng chất lượng, hiệu quả, siết chặt kỷ luật, kỷ cương”.([3])
Một số vấn đề đặt ra từ văn hóa chính trị CAND đối với đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy CAND.
Lịch sử cho thấy, những nhà chính trị lỗi lạc hoặc những lãnh tụ chính trị kiệt chúng đều là những người có văn hóa chính trị cao, trong đó nổi bật là tri thức chính trị. Về điều này, V.I.Lênin từng nhấn mạnh: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”([4]).
Trước những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, trước những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao cả về phẩm chất, năng lực của người cán bộ chiến sĩ CAND trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hơn hết, đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong CAND phải là người gương mẫu, đi đầu trong thực hành văn hóa chính trị. Đó vừa là yêu cầu về chính trị nhưng cũng đồng thời là yêu cầu về văn hóa trong tổ chức thực thi nhiệm vụ của lực lượng CAND.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Năng lực của người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công tác, do tập luyện mà có”([5]). Do vậy, để có thể hoàn thành tốt chức trách và nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, trong bất cứ hoàn cảnh nào, người cán bộ lãnh đạo, chỉ huy CAND cần phải nâng cao cả tri thức chính trị và năng lực hành động chính trị; phải thực hiện “nói đi đôi với làm”, “nói được, làm được”, “gương mẫu, đi đầu” thì mới có thể làm gương cho cán bộ, chiến sĩ, mới nhận được niềm tin yêu, sự tin tưởng, kính phục thực sự của của cán bộ, mới tạo ra được động lực từ tình cảm, niêm tin chính trị, tạo ra sự đoàn kết, nhất trí trong toàn đơn vị, hương tới thực hiện lý tưởng chính trị của Đảng, của dân tộc./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 9, tr. 231
[2] Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, tr.11
[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 182 – 183.
[4] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.4, tr.473.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 320.