Để phủ nhận thành quả Cách mạng tháng Tám năm 1945, các thế lực thù địch đưa ra một loạt quan điểm như: “Cách mạng tháng Tám năm 1945 là sai lầm lịch sử”, “không có gì thay đổi chế độ xã hội ở Việt Nam, chẳng qua chỉ là thay từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị””(!). Chúng còn rằng những thắng lợi mà Việt Nam giành được “đó là sự ăn may, vì Nhật thua trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chứ Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng có tài cán gì”; rằng “do khoảng trống quyền lực, nên Việt Nam dễ giành được kết quả nhanh chóng”(!). Một số lại cho rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 “là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam”; “nếu không có Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta đã giàu mạnh từ lâu và không mất dân chủ như bây giờ”; v.v..
Có thể vạch ra tính chất lỗi thời của các quan điểm phủ nhận thành quả của Cách mạng tháng Tám năm 1945 trên các phương diện sau:
Thứ nhất, đó là sự lỗi thời về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
Về phương pháp luận: Một mặt, họ đã sai lầm, khi không xuất phát từ thực tiễn, hoàn cảnh và điều kiện khách quan của lịch sử để xem xét, đánh giá thành quả của Cách mạng tháng Tám năm 1945 mà dựa vào phương pháp luận của xã hội học chủ quan. Vì thế, họ đã không nhìn thấy quy luật vận động của lịch sử, cũng như tính tất yếu của một cuộc cách mạng nổ ra và giành thắng lợi, mà sùng bái tự phát ngẫu nhiên của lịch sử cho nên họ giải thích thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 chỉ là “sự ăn may” của lịch sử (!?). Mặt khác, họ không thấy được Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng xã hội, thuộc phạm trù cách mạng vô sản, được diễn ra ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến nghèo nàn và lạc hậu, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đó là cuộc cách mạng tư sản dân quyền kiểu mới, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nó khác về hoàn toàn bản chất với các cuộc cách mạng tư sản trước đây. Mục tiêu của Cách mạng tháng Tám năm 1945 không dừng ở việc đập tan bộ máy chính quyền cũ, thiết lập chính quyền dân chủ nhân dân kiểu mới, mà sử dụng bộ máy chính quyền mới để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Với một phương pháp luận đã lỗi thời, lạc hậu họ chỉ nhìn thấy cái vẻ bề ngoài của cuộc cách mạng như là một sự “sang tên đổi chủ” từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị”, mà không thấy được bản chất sâu sắc, vĩ đại và tính chất triệt để của Cách mạng tháng Tám năm 1945, với tính cách là một cuộc cách mạng vô sản.
Về phương pháp nghiên cứu: C. Mác từng nói, “Không những kết quả của việc nghiên cứu, mà tất cả các con đường dẫn tới việc nghiên cứu, cũng phải là chân lý”[1].Tức là phải có phương pháp đúng thì mới đưa đến kết quả nghiên cứu đúng.Vậy phương pháp được họ sử dụng ở đây là gì? Dễ thấy rằng đó là phương pháp ngụy biện. Các quan điểm trên, thay vì đưa ra bằng chứng hoặc bất cứ điều gì để hỗ trợ lập luận của họ, họ chỉ biết lặp đilặp lại quan điểm cuối cùng của họ là như vậy! Khi sử dụng phương pháp so sánh, họ cũng ngụy biện so sánh ẩu[2] giữa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với sự cai trị của vua chúa phong kiến, giữa chủ nghĩa xã hội và chế độ phong kiến, để đánh đồng bản chất của hai chế độ xã hội hoàn toàn khác nhau này, nhằm phủ nhận chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã lựa chọn và đang đi tới.
Họ còn đánh tráo nguyên nhân với nguyên cớ (nguyên nhân giả), khi ngụy biện rằng “vì Nhật thua trong Chiến tranh thế giới thứ hai” và “do khoảng trống quyền lực nên “Cách mạng tháng Tám năm 1945 mới thành công nhanh chóng” nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sảng Việt Nam. Nếu chỉ là như vậy thì tại sao một số nước thuộc địa của Nhật, có điều kiện và hoàn cảnh giống nước ta khi đó lại không thể làm cách mạng thành công ở nước họ, và chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam làm được điều này? Rõ ràng, họ cố tình lờ đi, phủ nhận một nhân tố quan trọng, nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 chính là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với những ngụy biện trên, họ đưa kết luận vội vã, võ đoán, thiếu logic và không đúng rằng “Cách mạng tháng Tám năm 1945 là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam”; “nếu không có Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta đã giàu mạnh từ lâu và không mất dân chủ như bây giờ”.
Thứ hai, đó là sự lỗi thời về quan điểm nhận thức.
Cả lý luận và thực tiễn đều bác bỏ nội dung sai trái, lỗi thời của các quan điểm nhận thức trên và khẳng định không thể phủ nhận thành quả của Cách mạng tháng Tám năm 1945, với các luận cứ sau đây: (1) Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không phải là sai lầm lịch sử, nó nổ ra và giành thắng lợi do Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lựa chọn con đường giải phóng dân tộc một cách đúng đắn. (2) Nếu không có Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta không thể có cơ đồ, vị thế, uy tín và tiềm lực như hiện nay; nhân dân ta không có được địa vị người làm chủ như bây giờ. (3) Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã xóa bỏ sự thống trị của thực dân, phát xít và phong kiến, xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Đó là một cuộc cách mạng thực sự, nó không chỉ biết phá bỏ cái thể chế xã hội lỗi thời, lạc hậu, phản động, kéo lùi sự phát triển của dân tộc, mà quan trọng hơn, là biết kiến tạo, xây dựng xã hội mới chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. (4) Nguyên nhân vừa sâu xa vừa trực tiếp dẫn đến hai cuộc kháng chiến của nhân dân ta, chính là bản chất hiếu chiến xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, chứ không phải một lý do nào khác, càng không phải do Cách mạng tháng Tám năm 1945. Còn nói rằng, Cách mạng tháng Tám năm 1945 là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam là một sự đổi trắng thay đen một cách trơ trẽn, một sự ngụy biện, bênh che cho các thế lực thực dân, đế quốc hiếu chiến và xâm lược. (5) Phủ nhận thành quả Cách mạng tháng Tám năm 1945 đồng nghĩa với phủ nhận một trong những trang sử hào hùng nhất của dân tộc; phủ nhận công lao, sự hy sinh xương máu của bao thế hệ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta; phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo đất nước của Đảng ta.
Do sự cố chấp, định kiến và thiếu nhạy bén về chính trị nên các các quan điểm trên đã tụt hậu và không thể theo kịp với sự phát triển của nhận thức và thực tiễn đời sống chính trị trong nước và quốc tế hiện nay. Họ nhắm mắt làm ngơ trước những hiện thực sinh động của đất nước, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, bằng tinh thần quật cường và anh dũng, đã chiến đấu và hi sinh vô cùng gian khổ mới giành được độc lập dân tộc, tự do cho Tổ quốc.
Thứ ba, đó là sự lỗi thời về mặt thực tiễn.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến nghèo nàn và lạc hậu, không có tên trên bản đồ thế giới, với 95% dân số không biết viết, không biết đọc. Nạn đói năm 1945 do phát xít Nhật gây ra đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người, bằng khoảng 10% dân số của cả nước vào thời điểm ấy.
Ngay sau khi tuyên bố độc lập, ngày 03/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nêu sáu nhiệm vụ cấp bách: trong đó cứu đói là một trong sáu nhiệm vụ hàng đầu và phong trào “diệt giặc đói” được triển khai ngay. Biện pháp cơ bản để giải quyết tận gốc nạn đói là tăng gia sản xuất. Khẩu hiệu “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!”, “Không để một tấc đất bỏ hoang”, “Tấc đất tấc vàng”... trở thành hành động thực tế của toàn Đảng, toàn dân. Kết quả là, đến đầu năm 1946, sản lượng hoa màu tăng gấp bốn lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Giặc đói đã được đẩy lùi, tài chính bước đầu được gây dựng lại. Chiến thắng giặc đói là một trong những thành tựu lớn đầu tiên của Nhà nước cách mạng non trẻ. Nó thể hiện tính ưu việt của chế độ mới, của chính quyền nhân dân, góp phần củng cố khối liên minh công nông. Uy tín của Đảng và Chính phủ ngày càng được nâng cao trong nhân dân. Nhân dân càng thêm tin tưởng, gắn bó và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng.
Đồng thời, Nhà nước còn vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, nếp sống mới, xóa bỏ văn hóa nô dịch của chế độ thực dân, phong kiến; phát triển phong trào bình dân học vụ, chỉ trong vòng một năm, từ ngày 08/9/1945 đến ngày 08/9/1946, trên toàn quốc đã tổ chức được 75.805 lớp học với hơn 97.664 giáo viên và đã xoá mù chữ cho 2.520.673 người. Tiếng Việt được chính thức dùng trong hệ thống trường học. Công tác y tế, vệ sinh phòng bệnh cũng được quan tâm, v.v.. Rõ ràng, nếu không có Cách mạng Tháng Tám năm 1945, không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “giặc đói”, “giặc dốt” không thể bị đẩy lùi chỉ trong thời gian rất ngắn như vậy.
Với những thắng lợi đã giành được trong 76 năm qua, mà khởi đầu từ thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn diện, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Đặc biệt qua 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu trên đã bác bỏ sự vu cáo, bịa đặt hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, cố tình phủ nhận những thành quả cách mạng mà chúng ta đã đạt được.
Như vậy là, những thành quả của đất nước và nhân ta phất đấu đạt được trong 76 năm qua đều có tiền đề xuất phát điểm từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, bởi đó là mục tiêu tiên quyết có ý nghĩa định hướng chiến lược cho toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam sau này. Cho nên, có thể khẳng định rằng: không có Cách mạng tháng Tám năm 1945, sẽ không có những thành quả của ngày hôm nay.
Thứ tư, đó là sự lỗi thời về tư duy chính trị.
Các quan điểm sai trái trên đã thể hiện một tư duy chính trị thiển cận, thể hiện ở cách nhìn hẹp hòi, vụ lợi, không thấy được giá trị toàn cục và lợi ích chung mà Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mang lại cho đất nước ta, dân tộc ta, đồng bào ta. Tư duy này bám vào những giáo điều cổ hủ, lạc hậu để xem xét, đánh giá hiện thực, thực tiễn cách mạng sinh động của đất nước, tự tách mình khỏi dân tộc và thời đại, không vượt qua được những thiên kiến cá nhân, tiểu tư sản, để hòa vào với đời sống đất nước và với cộng đồng quốc tế giới đang trong thời kỳ hội nhập sâu rộng và toàn diện hiện nay.
Thành quả của Cách mạng tháng Tám năm 1945 nói riêng và thành quả của cách mạng Việt Nam nói chung là không thể phủ nhận. Những thành quả đó, không chỉ được nhân dân ta, Đảng ta nỗ lực phấn đấu để có được mà còn được bạn bè và cộng động quốc tế ghi nhận. Ngay cả những chính phủ cừu địch với chúng ta trước đây cũng đã phải công nhận những thành quả đó, bởi đơn giản, những thành quả đó là sự thật khách quan không thể phủ nhận.
PGS.TS Phan Trọng Hào
Hội đồng Lý luận Trung ương
Nguồn Hội đồng Lý luận Trung ương