Từ nhiều năm nay, lợi dụng những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, nhất là quan hệ của Việt Nam với một số nước lớn và vấn đề chủ quyền biển, đảo của nước ta ở Biển Đông, trên các phương tiện thông tin, nhất là mạng xã hội, các thế lực thù địch và các phần tử chống đối, cơ hội đã tung nhiều thông tin sai lệch, ra sức công kích, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước ta.
Những luận điệu bóp méo, xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước ta
Xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước Việt Nam là đã “lạc hậu, lỗi thời”, “không còn phù hợp”, nhất là trong tình hình hiện nay. Không ít cá nhân, nhóm cá nhân tự xưng là “người yêu nước”, “tâm huyết” với “vận mệnh quốc gia dân tộc” đã viết bài phát tán trên mạng xã hội với những giọng điệu xuyên tạc. Họ lập luận rằng, thế giới hiện nay đang là thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, các quốc gia, dân tộc có mối quan hệ ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau. Vì thế theo họ, nếu vẫn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ là “bảo thủ”, “tự mình cô lập mình”, là “tự tách ra khỏi dòng chảy” của thế giới bên ngoài, chính sách đối ngoại đó đã thực sự “lạc hậu, lỗi thời”, “không còn phù hợp”, và đã trở thành “lực cản” đối với sự phát triển đất nước. Họ cho rằng, Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không” (không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) là “tự trói tay mình”, là chính sách “không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi”, nếu không thì không thể bảo vệ được độc lập, chủ quyền của đất nước.
Bóp méo sự thật, xuyên tạc rằng, Đảng và Nhà nước Việt Nam trên thực tế đã từ bỏ chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và đang ngấm ngầm “theo chân” nước này để chống nước kia. Họ xuyên tạc chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, cân bằng quan hệ với các nước lớn của Việt Nam, cho rằng đó là “đường lối trung dung”, là “đi dây” trong quan hệ với các nước lớn, như thế là “tự cô lập” mình, “tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Lợi dụng một số hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong thời gian qua, nhất là khi Việt Nam đẩy mạnh quan hệ với Mỹ và Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên được tổ chức tại Hà Nội (tháng 2-2019), một số thế lực cố tình xuyên tạc Việt Nam “đang ngấm ngầm “theo chân” nước này chống nước kia”, Việt Nam đã “nghiêng về bên này để chống bên kia”, đã “từ bỏ” chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của mình.
Xuyên tạc mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước, nhất là mối quan hệ của Việt Nam với Mỹ và với Trung Quốc. Các thế lực thù địch và một số phần tử cơ hội trắng trợn xuyên tạc rằng, Việt Nam đang phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, Việt Nam đang điều chỉnh quan hệ đối ngoại nhằm “tìm kiếm đối tác chiến lược”, “thiết lập liên minh mới” để đối phó với nước đang gây áp lực bất lợi cho mình. Họ “kiến nghị” Đảng và Nhà nước Việt Nam phải từ bỏ chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ; rằng muốn bảo vệ được độc lập, chủ quyền thì phải dựa vào một cường quốc, “chỉ có liên minh quân sự với một cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền biển, đảo”.
Trong thực tiễn, các thế lực thù địch dùng nhiều ngón đòn và các chiêu trò khác nhau, với những giọng điệu khác nhau, khi thì đứng hẳn về phía đối lập ra sức xuyên tạc chống phá, khi thì như “người trong cuộc” thể hiện “thiện chí”, “tâm huyết” đối với sự nghiệp cách mạng và chính sách đối ngoại của Việt Nam. Song, những luận điệu và sự “tâm huyết” này đều thể hiện một thái độ và cái nhìn thiếu thiện chí, méo mó, sai lệch và thù địch đối với các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta và tình hình thực tiễn của Việt Nam.
Nội dung và chiêu thức xuyên tạc của các thế lực thù địch trong nhiều trường hợp tưởng như mâu thuẫn nhau, nhưng thực chất là đều nhằm xuyên tạc, chống phá đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước ta, chống phá cách mạng Việt Nam. Sự chống phá đó đặc biệt nguy hiểm, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi Việt Nam đang đẩy mạnh quan hệ với các nước trên thế giới, hội nhập ngày càng chủ động, tích cực và sâu rộng vào đời sống chính trị quốc tế. Dù chưa thể làm chệch hướng, vô hiệu hóa đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam, chưa thể hạ thấp vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế, nhưng những luận điệu này cũng có thể khiến một bộ phận cán bộ và nhân dân ta hoang mang, dao động, từ đó suy giảm niềm tin vào đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, gây khó khăn cho Việt Nam trong các hoạt động đối ngoại và xử lý các mối quan hệ quốc tế.
Không thể xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam là lỗi thời, là “trung dung”, “đi dây” trong quan hệ với các nước lớn
Hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn của thời đại, dù đang gặp những trở ngại, thách thức. Mỗi nước trên thế giới đều có quan hệ với các nước khác, nhất là chú trọng quan hệ với các nước lớn với những nội dung, hình thức và mức độ khác nhau. Đó vừa là xu thế, vừa là phương thức cơ bản bảo đảm an ninh và phát triển của mỗi nước. Phù hợp với xu thế đó, gần 35 năm qua, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Do vậy, cần khẳng định rằng, chỉ có nhất quán và thực hiện tốt đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, không phụ thuộc vào bất cứ nước lớn hay nhóm nước nào thì chúng ta mới có thể tận dụng tốt nhất các cơ hội, điều kiện thuận lợi phục vụ cho sự phát triển đất nước. Điều đó tuyệt đối không thể gọi là “lạc hậu, lỗi thời”, là “trung dung”, “đi dây” trong quan hệ với các nước lớn.
Trên thực tế, chúng ta đã và đang thúc đẩy quan hệ với các nước lớn cũng như với các nhóm nước, tổ chức trên thế giới. Chúng ta chủ động tham gia các cơ chế, các diễn đàn khu vực và toàn cầu để vừa thích ứng với các trào lưu, xu thế chung của thế giới, vừa phục vụ một cách tốt nhất các lợi ích quốc gia - dân tộc.
Hiện nay, chúng ta vừa tăng cường quan hệ với Trung Quốc, vừa làm sâu sắc hơn quan hệ với Mỹ trên cơ sở mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các nước này ngày càng trở nên tốt đẹp, thực chất và hiệu quả hơn. Đó là quan điểm, lập trường và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam, tuyệt nhiên không phải là chúng ta đang “nghiêng về bên này để chống bên kia” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Việt Nam và Trung Quốc phát triển quan hệ theo phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi giữa hai nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Từ khi hai nước thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện năm 2008, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã không ngừng mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu trên tất cả các lĩnh vực. Hiện nay, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam với kim ngạch mậu dịch giữa hai nước tăng lên không ngừng. Những năm gần đây, quan hệ hợp tác đầu tư hai chiều tăng đáng kể. Năm 2017, Trung Quốc có 1.616 dự án đầu tư vào Việt Nam còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký là 11,19 tỷ USD, đứng thứ tám trong 116 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam(1). Năm 2018, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam - Trung Quốc đạt 106,7 tỷ USD, tăng hơn 3.300 lần so năm 1991. Trong 11 tháng đầu năm 2019, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc đạt 105,75 tỷ USD, tăng 8,71% so cùng kỳ 2018. Tính đến hết tháng 11-2019, Trung Quốc có 2.739 dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, tổng số vốn 16,1 tỷ USD, đứng thứ bảy trong số 132 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam(2).
Việt Nam và Mỹ thúc đẩy quan hệ song phương với tinh thần gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai. Quan hệ chính trị giữa hai nước phát triển theo hướng ngày càng hiểu biết lẫn nhau, tăng thêm độ tin cậy. Chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Mỹ Đ. Trăm (tháng 11-2017) khẳng định sâu sắc hơn tinh thần đó với tuyên bố: “Lãnh đạo hai nước thảo luận về những biện pháp để củng cố và mở rộng quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau, các lợi ích và mong muốn chung thúc đẩy hòa bình, hợp tác, thịnh vượng và an ninh tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”(3). Những năm gần đây, kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước liên tục tăng trưởng. Năm 2019 là năm sôi động của quan hệ thương mại Việt Nam - Mỹ, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam - Mỹ đến hết tháng 9-2019 đạt 68,6 tỷ USD, tăng 24,5% so với cùng kỳ năm trước; hiện Mỹ là đối tác thương mại lớn thứ ba trong số hơn 100 đối tác thương mại của Việt Nam trên toàn cầu(4). Tháng 2-2019, tại cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần thứ hai được tổ chức tại Hà Nội, Tổng thống Đ. Trăm khẳng định tiếp tục thúc đẩy hợp tác với Việt Nam.
Việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả quan hệ với các nước lớn, nhất là quan hệ với Mỹ và Trung Quốc là đúng đắn, phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Đó là chính sách ngoại giao cân bằng, độc lập, tự chủ, không thể nói đó là “đi dây” trong quan hệ với các nước lớn. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán và thực hiện đúng đắn, sáng tạo chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, do vậy vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước ở các châu lục, có quan hệ, hợp tác với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, có quan hệ kinh tế với hơn 220 thị trường nước ngoài. Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 quốc gia, trong đó có 17 quốc gia là đối tác chiến lược toàn diện và đối tác chiến lược, 13 quốc gia là đối tác toàn diện. Việt Nam là thành viên của các tổ chức và diễn đàn khu vực và quốc tế, như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ASEAN, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Những năm gần đây, những sự kiện quốc tế cho thấy vị thế, uy tín của Việt Nam và mức độ tin cậy của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam, đó là việc tổ chức thành công Tuần lễ Cấp cao APEC tại Đà Nẵng (năm 2017), Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN (WEF ASEAN 2018) tại Hà Nội, Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần thứ hai tại Hà Nội (tháng 2-2019); và việc Việt Nam trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 (tháng 6-2019).
Điều đó đã chứng thực một cách sinh động đất nước Việt Nam đang vững bước phát triển đi lên với một tư thế mới, tư thế của những con người làm chủ, độc lập làm chủ và biết làm chủ vận mệnh của mình; với một vị thế mới, vị thế của một đất nước độc lập, tự chủ, hòa bình, ổn định đang trên đà phát triển và chủ động, tích cực, có trách nhiệm trong các “sân chơi” khu vực và toàn cầu. Đó là thực tế, là sự thật mà mọi người dân Việt Nam đều phấn khởi, tự hào, được bạn bè quốc tế thừa nhận. Thực tế đó đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc, chống phá, vừa thể hiện tính đúng đắn, sáng tạo và hiệu quả của đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, vừa phản ánh Việt Nam có khả năng, có thực lực để giữ vững độc lập, tự chủ.
Cũng không thể nói rằng, thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không” là “tự trói tay mình”, “cần phải thay đổi”, nếu không thì không thể bảo vệ được độc lập, chủ quyền đất nước. Đây thực chất là nhằm tạo ra sự hoài nghi, hoang mang, dao động, từ đó đẩy nước ta rơi vào sự lệ thuộc, phụ thuộc mới. Cần khẳng định rõ rằng, trong lịch sử từ trước tới nay, nhân dân Việt Nam bảo vệ độc lập, chủ quyền, bảo vệ Tổ quốc luôn dựa trên tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ, tinh thần tự lực tự cường, phát huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
Chính sách quốc phòng “bốn không”, mà trọng yếu là không liên minh quân sự, là biểu hiện đặc thù của đường lối, chính sách độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng trong bối cảnh lịch sử mới, là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp. Thực hiện chính sách này, chúng ta mới có thể kết hợp và phát huy tốt nhất các nguồn sức mạnh để bảo vệ độc lập, chủ quyền. Nghiêng về bên này hay ngả về bên kia, tức là phụ thuộc vào một nước lớn nào đó đồng nghĩa với việc bị mất độc lập, tự chủ. Bị phụ thuộc, mất độc lập, tự chủ thì vấn đề “bảo vệ độc lập, chủ quyền” cũng không còn ý nghĩa, không còn giá trị.
Đúng là trong lịch sử nhân loại cũng đã từng có các liên minh quân sự, với những mục đích, tính chất, nội dung, hình thức và cấp độ khác nhau. Có liên minh quân sự mang tính chất chính nghĩa, tiến bộ, tự vệ nhằm bảo vệ hòa bình, độc lập, chủ quyền của các quốc gia thành viên; có liên minh quân sự mang tính chất phi nghĩa, phản động nhằm xâm lược, nô dịch các dân tộc khác; có liên minh mang tầm chiến lược giữa các nhóm nước với nhau, hoặc giữa hai nước, lại có liên minh tạm thời trong những tình huống cụ thể; có liên minh quân sự ở dạng gián tiếp hỗ trợ, ủng hộ, giúp đỡ nhau về chính trị, ngoại giao và quân sự, lại có liên minh quân sự ở dạng trực tiếp tham chiến khi có chiến tranh xảy ra; có liên minh toàn diện về quân sự, quốc phòng, lại cũng có liên minh trên một khía cạnh nào đó của quân sự, quốc phòng...
Liên minh quân sự không phải là không có lợi ích, bởi nếu không có lợi ích nào đó thì đã không có sự liên minh. Nhưng lịch sử nhân loại cũng đã chứng thực rằng, liên minh quân sự, nhất là liên minh quân sự với nước lớn, thường gây nhiều hệ lụy tiêu cực trong nhiều trường hợp và tình huống cụ thể, có những diễn biến bất lợi, rất khó lường. Thứ nhất, liên minh quân sự dẫn đến gia tăng sự căng thẳng, đối đầu giữa các nước trong liên minh và ngoài liên minh, dễ “biến” những nước ngoài liên minh, nhất là nước lớn trở thành “đối trọng”, thậm chí trở thành “đối thủ”, dù liên minh có tuyên bố là tự vệ, không nhằm chống lại ai; thứ hai, các nước “nhỏ hơn” trong liên minh có thể phải hy sinh hoặc hy sinh một phần lợi ích của mình, nhất là vấn đề độc lập, chủ quyền, quyền tự quyết; thứ ba, các nước “lớn hơn” thường tác động, chi phối các nước “nhỏ hơn”, và thỏa hiệp, “mặc cả” với nhau vì lợi ích chiến lược của họ; thứ tư, dù có liên minh, nhưng không có nước nào lại hy sinh lợi ích của mình chỉ vì lợi ích của nước khác. Trong bối cảnh đó, liệu hòa bình, ổn định, độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc của nước nhỏ hơn có được bảo đảm không? Chắc chắn là không! Những vấn đề tiêu cực và hệ lụy đó của liên minh quân sự trong thế giới đương đại càng trở nên rõ ràng.
Trong bối cảnh tình hình hiện nay, trước các mối quan hệ rất nhạy cảm của Việt Nam với các nước lớn, nếu chúng ta thực hiện liên minh quân sự với một cường quốc nào đó, thì những hệ lụy tiêu cực trên càng nguy hiểm, trở thành “hợp lực” tác động tổng hợp, đặt hòa bình, ổn định, độc lập, chủ quyền của đất nước và sự tồn vong của chế độ trước nguy cơ rất khó lường.
Thế giới hiện nay đang trong tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, các quốc gia, dân tộc có mối quan hệ ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau. Nhưng không phải vì thế mà chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ đã trở nên “lạc hậu”, phải “từ bỏ” nó. Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ không phải là biệt lập, cô lập với thế giới bên ngoài, đứng ngoài lề tiến trình hội nhập quốc tế, càng không phải là “tự mình cô lập mình” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, mà đó chính là chúng ta thể hiện chủ quyền, quyền tự quyết, quyền tự lựa chọn quyết định con đường, mô hình phát triển của quốc gia - dân tộc. Độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế chỉ có thể đạt hiệu quả nếu giữ vững được độc lập, tự chủ và thực hiện tốt chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ. Không thể hội nhập quốc tế thành công nếu không giữ vững và phát huy được độc lập, tự chủ trong chính sách đối ngoại.
Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước Việt Nam là sáng suốt, đúng đắn
Ngay từ rất sớm, tư tưởng độc lập, tự chủ đã trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt và là nguyên tắc cơ bản định hình các hoạt động đối ngoại từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam đến nay. Độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để chúng ta bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc của mình trước mọi tác động của tình hình, trước những biến động của thời cuộc, khẳng định tính đúng đắn của đối ngoại Việt Nam.
Độc lập có nghĩa là chúng ta tự “điều khiển lấy mọi công việc” của mình, “không có sự can thiệp ở ngoài vào”(5). Không để bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước ta là nguyên tắc cốt lõi của đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ. Độc lập, tự chủ phải dựa trên cơ sở nội lực, thực lực của đất nước, đồng thời cũng dựa vào hợp tác và hội nhập quốc tế. Trong tình hình mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam “trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế”(6), kiên trì chính sách độc lập, tự chủ gắn bó chặt chẽ với thực hiện phương châm tích cực và chủ động trong công tác đối ngoại, với “chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của cộng đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức, khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước”(7). Đó là quan điểm, phương cách giải quyết, xử lý đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên, chúng ta cũng hiểu rõ những khó khăn và thách thức to lớn, những trở ngại không dễ khắc phục, vượt qua khi thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong tình hình hiện nay. Giữ vững độc lập, tự chủ, thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ thực sự là vấn đề không đơn giản, bởi sự tác động, chi phối của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, sự cản trở, chống phá của các thế lực thù địch, tính chất phức tạp của quan hệ quốc tế, nhất là quan hệ giữa các nước lớn trong bối cảnh hiện nay.
Nhất quán thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ không chỉ là tinh thần, quyết tâm mà còn phải được thể hiện và xác định bằng những chủ trương, chính sách. Độc lập, tự chủ phải được thể hiện cụ thể trên những vấn đề cơ bản: Một là, giữ vững độc lập, tự chủ trong xác định đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, phương hướng phát triển của đất nước, không để bên ngoài can thiệp, không vì sức ép nào đó mà từ bỏ những vấn đề “bất biến”, mà xoay chuyển đường lối, chính sách, gây bất lợi cho cách mạng, làm chệch hướng sự phát triển của đất nước. Hai là, độc lập, tự chủ, sáng tạo trong dự báo, đánh giá tình hình quốc tế, khu vực để bổ sung, hoàn thiện chính sách phù hợp với điều kiện đất nước, tương thích với thông lệ và cách tiếp cận chung của thế giới, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc. Ba là, độc lập, tự chủ trong quyết định và thực hiện quan hệ với các nước, với các nước lớn, các nhóm nước. Bốn là, độc lập, tự chủ trong lựa chọn hình thức, bước đi hội nhập, tham gia các tổ chức quốc tế, ký kết các điều ước song phương và đa phương. Năm là, độc lập, tự chủ trong quá trình đàm phán, đấu tranh giành quyền gia nhập các tổ chức quốc tế, chủ động, sáng tạo thực thi các cam kết, thỏa thuận với các nước, triệt để tận dụng cơ hội cho phát triển và đối phó với những thách thức nảy sinh. Sáu là, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(8). Đó là đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Trên cơ sở quán triệt và thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại đó, những năm gần đây, đối ngoại Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là: Thứ nhất, củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân. Thứ hai, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, quảng bá sâu rộng hình ảnh Việt Nam trên thế giới, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Thứ tư, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam. Thứ năm, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới, mà Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, “Về hội nhập quốc tế” đã xác định.
Cũng cần nói thêm rằng, báo giới và dư luận trên thế giới đánh giá cao và tích cực uy tín, vị thế đang lên của Việt Nam trong những năm gần đây. Ngay sau khi Việt Nam được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vào tháng 6-2019, những lời chúc mừng từ các nước đã được gửi đến Việt Nam bày tỏ kỳ vọng vào những đóng góp tích cực, trách nhiệm của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế trong nhiệm kỳ tới.
Vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng tăng lên là một thực tế khách quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(9); “Ta có mạnh thì họ mới chịu “đếm xỉa đến””(10). Thực lực tổng hợp của quốc gia, sự đoàn kết và nỗ lực quyết tâm của toàn thể dân tộc, tính đúng đắn, quang minh, chính đại thể hiện mục tiêu hòa bình, hợp tác và phát triển của đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ là những yếu tố quyết định tạo nên vị thế, uy tín của đất nước. Hay nói cách khác, đó là tổ hợp các yếu tố “kinh tế vững”, “quốc phòng mạnh”, “thực lực cường”, “lòng dân yên”, “chính trị - xã hội ổn định”, “cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất”(11) như Đảng ta khái quát. Vị thế, uy tín của đất nước được nâng cao phản ánh một thực tế là Việt Nam thực sự có “giá trị” và có thể gọi là “giá trị chiến lược” trong quan hệ quốc tế.
“Giá trị chiến lược” của Việt Nam được cấu thành bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài, trong đó, sức mạnh nội lực, sức sống nội sinh, kinh tế vững, quốc phòng, an ninh đủ mạnh, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chính trị - xã hội ổn định, sự trong sạch, vững mạnh của Đảng và Nhà nước, giá trị của lịch sử - văn hóa, khả năng phát triển tương lai, chính sách đối ngoại đúng đắn, độc lập, tự chủ, vị trí địa - chiến lược..., những yếu tố mang “thương hiệu” Việt Nam như đã từng là ngọn cờ đầu trong phong trào giải phóng dân tộc, là đất nước kiên định và vững vàng đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, không ngừng phát triển và đạt được nhiều thành tựu to lớn trong một thế giới đầy biến động... “Giá trị chiến lược” đó vừa là “điểm tựa” vững chắc cho việc thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, vừa không ngừng được phát huy, phát triển và gia tăng bởi nhất quán thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn. Bị phụ thuộc, mất độc lập, tự chủ thì “giá trị chiến lược” sẽ bị mất đi, không còn tác dụng.
Đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước Việt Nam là đúng đắn, phù hợp. Những thành tựu của chúng ta đạt được từ việc nhất quán thực hiện đường lối, chính sách đó là rất quan trọng, được các tầng lớp nhân dân phấn khởi, tự hào và tin tưởng, được các nước trên thế giới đánh giá cao. Đó là thực tế sáng rõ mà không ai có thể phủ nhận./.
PGS, TS. NGUYỄN MẠNH HƯỞNG
Nguồn Tạp chí Cộng sản
-------------------------------------
(1) Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư: “Trung Quốc đầu tư hơn 11 tỷ USD tại Việt Nam”, Thời báo Tài chính, ngày 10-4-2017
(2) Phạm Bình Minh: “70 năm quan hệ Việt Nam - Trung Quốc: Hữu nghị, hợp tác là dòng chảy chính”, Báo Nhân Dân điện tử, cập nhật ngày 17-1-2020
(3) Tuyên bố chung Việt Nam - Hoa Kỳ nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Donald J. Trump, http://vietnamembassy-usa.org/vi/tin-tuc/2017/11/tuyen-bo-chung-viet-nam-hoa-ky-nhan-chuyen-tham-viet-nam-cua-tong-thong-hoa-ky, ngày 13-11-2017
(4) Đức Minh: “Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ từ 450 triệu USD đến 60 tỷ USD”, Tạp chí Việt - Mỹ, số 83, 2020, tr. 35
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 162
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 236
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 152
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 153
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 147
(10) Văn kiện Đảng: Toàn tập (1940 - 1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 244
(11) Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2013, tr. 168 - 169